Cùng xem Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) | Văn mẫu 12 trên youtube.
Có thể bạn quan tâm
Tài liệu Hướng dẫn lập dàn ý Phân tích truyện Vợ chồng Phú, tham khảo một số bài văn mẫu hay để mở rộng vốn từ và cách trình bày khi vào truyện ngắn Vợ chồng Đỗ Hoài phân tích.
Hướng dẫn lập dàn ý và phân tích tác phẩm vợ chồng
1. Phân tích chủ đề
– Loại bài viết: Loại bài viết phân tích tác phẩm văn học.
– Tên đề tài: Nội dung, nhân vật và nghệ thuật của truyện đôi lứa
– Phạm vi tài liệu tham khảo: khái niệm cơ bản, tranh ảnh, chi tiết, tục ngữ… đoạn trích văn bản trong phạm vi Cặp đôi một trang bìa.
2. Xác định thông số, thông số
– Bài 1: Phân tích tính cách của tôi
+ Trước khi trở thành người đòi nợ
+ Kể từ khi trở thành người đòi nợ
+ sức sống tiềm tàng
– Bài 2: Phân tích nhân vật trang bìa
+số phận, hoàn cảnh
+Nhân vật
3. Sơ đồ tư duy
Phân tích sơ đồ tư duy về công việc của vợ chồng
4. Dàn ý chi tiết của bài văn phân tích truyện Vợ chồng son
a) Mở
– Tô Hoài là cây bút hài hước tự sự, chuyên về truyện tùy bút và hồi ký.
–Truyện Tây Bắc kỳ vĩ in chung với vợ chồng Phúc, tác phẩm phản ánh nỗi thống khổ của người dân Tây Bắc dưới ách áp bức của thực dân Pháp, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của con người Tây Bắc. Người đẹp ở đây.
b) Văn bản
* Phân tích tính cách của tôi
– Trước khi trở thành người đòi nợ
+ Em là một cô bé thổi sáo trẻ trung, hồn nhiên và có tài.
+Tôi đã yêu và luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
+ Hiếu thảo, cần cù, hiểu được giá trị của cuộc sống tự do nên anh sẵn sàng làm ruộng ngô để trả nợ cho cha.
– Từ khi làm dâu chủ nợ
+ Nguyên nhân: Nợ cha mẹ, tục cướp vợ người Miêu đưa về nhà cúng ma. Người lao động bị ràng buộc bởi quyền lực và một chế độ thần quyền.
<3 bị đánh dã man: trói, đá vào mặt,…
<3 angle", "Nỗi đau quen thuộc lâu rồi".
+ Tưng bừng lễ hội mùa xuân ở Hồng Kông, năng lượng tăng vọt:
- Những âm thanh của cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ quay bánh xe, tiếng sáo gọi bạn tình,..) đánh thức những ký ức trong quá khứ.
- Tôi ý thức được sự tồn tại của mình, “tôi sảng khoái trở lại”, “tôi còn trẻ…”, khao khát tự do, thắp sáng căn phòng tối tăm, muốn “đi chơi hội xuân” điểm .Kết thúc hình phạt tù.
- Khi bị trói lòng tôi vẫn văng vẳng tiếng sáo, khúc tình ca dành riêng cho người trong cuộc. Khi cô tỉnh dậy, cô đột nhiên bị đánh thức bởi thực tại.
- Khi nhìn thấy những giọt nước mắt của một chính quyền khiến tôi đồng cảm, tôi chợt nghĩ đến hoàn cảnh của mình ngày xưa, tôi biết thương mình, xót xa cho kiếp người bị đàn áp ” biết đâu ngày mai lại có người chết, chết trong đau đớn , ..phải chết.
- Không hài lòng với tội ác của Thống đốc, tôi cắt dây và rút rìu. Tôi sợ chết và quan, nàng đuổi theo quan để tìm lối thoát.
- Lý do: Đánh tiếng Quan lại thua một vụ kiện kỳ lạ.
- Bị nhục hình: phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm: “đốt rừng, cày ruộng, săn trâu bò…” Tệ hơn con bò, làm việc. bị mất gia súc, nhưng bị trói.
li>
=>Trong tôi luôn có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, và sức sống ấy đã âm ỉ cháy trong trái tim người con gái Tây Bắc, chờ thời điểm thích hợp để bùng nổ.
Xem Thêm : Chúa Giêsu Sinh Ra Vào Năm Nào? – SimonHoaDalat
+Nhà quan mất bò thì bị phạt:
=>Tôi là một cô gái trầm tính nhưng mạnh mẽ, những việc làm của tôi đã lật đổ quyền lực và thần quyền của những ngọn núi.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật tôiNhìn vẻ đẹp tinh thần và nghị lực phi thường của tôi dưới hoàn cảnh phong kiến lúc bấy giờ.
*Bìa phân tích nhân vật
-Số phận:
+ Bố mẹ đều chết, không người thân
<3
+ Khi trở thành nhân viên đòi nợ:
– Tính cách:
+ Tuổi trẻ mạnh mẽ, bướng bỉnh: bị bán xuống miền xuôi rồi trốn lên núi cao
+ Lớn lên thành người khỏe mạnh, chăm chỉ, tháo vát, việc gì cũng làm được.
+ là người biết phẫn nộ trước sự bất công (đánh vào lịch sử)
+ Khao khát tự do (chạy dịu dàng khi cắt dây).
=> Phân tích nhân vật phủ, ta thấy phủ là người bề ngoài, lời nói ngắn gọn và hành động mạnh mẽ.
c) Kết luận
– Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói miền núi, điểm nhìn trần thuật linh hoạt, biến hóa, khắc họa thành công tâm lý nhân vật và hình tượng thiên nhiên.
– Các tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: đồng cảm với số phận đau khổ của người dân bị áp bức, tố cáo bọn thống trị, thực dân ở miền núi, ca ngợi vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng của con người Tây Bắc.
Một số bài văn hay phân tích vợ chồng tôi
Mẫu 1:
to hoai> nhớ lại: “Kết quả lớn nhất và đầu tiên trong 8 tháng rong ruổi đó là đất nước và con người miền Tây yêu mến và nhớ đến tôi rất nhiều, tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi sẽ không bao giờ quên điều đó Thời gian, vợ chồng tôi nhìn thấy tôi trong thung lũng ở làng Tasua và họ cùng nhau vẫy tay: Đường chéo! Có lẽ đó là lý do tại sao anh ấy viết Cặp đôi Ah Fu cho Vùng lãnh thổ Tây Bắc cao Lý do cho người dân.
Truyện ngắn này được tuyển tập trong tập Truyện cổ Tây Bắc (1952) và đoạt giải nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. “Vợ chồng A Phúc” là một bức tranh Tây Bắc với những điều kiện và phong tục địa phương đặc sắc, trong phần đầu của tác phẩm, Đỗ Hoài Ái chủ yếu khắc họa cuộc đời của nhân vật chính Mai và A Phúc trong Khang nghĩa , sống như những nô lệ trong cuộc sống ở Dinh Thống đốc.
Trước khi về làm dâu nhà thống lý, tôi là một cô gái xinh đẹp, yêu cuộc sống tự do tự tại. Em có tài thổi sáo rất giỏi, “chơi lá như thổi sáo”, khiến “bao nhiêu người say mê, ngày đêm cùng em thổi sáo”. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó, ngày xưa bố mẹ phải vay mượn tiền cưới vợ, đến khi mẹ mất vẫn chưa trả hết nợ, nhưng tôi luôn hiểu rõ về cuộc sống của mình.
Cô nói với cha: “Từ khi con biết cuốc đất trồng ngô, con phải làm ruộng ngô và vay tiền cho cha, cha đừng bán con cho nhà giàu”. Đó là tiếng nói phản kháng hủ tục thay nợ với đồng bào miền núi. Hủ tục cổ xưa này đã cướp đi cuộc sống tự do của nhiều người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của chính mình. Tôi tin rằng tôi có thể làm việc trên những cánh đồng ngô để trả nợ cho cha tôi.
Nhưng bị cướp đem về cho quan tổng đốc “tế ma”. Cả cuộc đời tôi gắn liền với số phận của cô con dâu chủ nợ trong dinh Thống đốc. Cô ấy tức giận và tổn thương vì con người của mình. Trong nhiều tháng, đêm nào cô cũng khóc. Tôi muốn lấy lá tự vẫn nhưng cô “không nỡ chết” vì thương cha. Có lẽ cái chết là cách tốt nhất để tôi thoát khỏi vòng nô lệ, không hối hận hay tức giận.
Từ thái độ phản kháng, tôi trở nên cam chịu số phận. Quen với khổ, “tưởng mình cũng là trâu, mình cũng là ngựa” làm việc ngày đêm không ngơi nghỉ. Hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, kéo sợi, dệt vải, bổ củi, gánh nước và những công việc khác được “vẽ ra trước mắt” và thôi thúc bà làm. Vì thế mà “ngày ngày không nói, thu mình lại như con rùa trong xó”.
Càng ngày tôi càng im lặng, cam chịu số phận, không một lời than vãn. Trong mọi trường hợp, khuôn mặt của cô ấy là “buồn”. Người đàn bà ấy đã đau khổ và mất hết cảm giác về thời gian và không gian, vì phòng tôi có một ô cửa sổ lỗ vuông bằng lòng bàn tay, “Lúc nào cũng nhìn ra ngoài, chỉ thấy trăng trắng, không biết có phải không. là sương hay là nắng”.
Tôi tưởng mình vô cảm với thế giới bên ngoài, nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào xuân, tiếng sáo đã khơi dậy trong tôi tình yêu và sức sống. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ say của nàng. Tôi cảm nhận được tiếng sáo “ngọt ngào” gọi bạn đi chơi, và không khí Tết khiến tôi như “sống lại ngày xưa”.
Tôi uống rượu, “uống từng bát”, như nuốt hết những ân oán trong đó. Tâm hồn tôi lại “nổ tung”. Đặc biệt là tôi tự nhận thức được bản thân và cô ấy nhận ra mình còn trẻ và muốn đi chơi trong ngày đầu năm mới. Ước muốn đã biến thành hành động: “Tôi lấy ống mỡ, cuộn lại thành đoạn bỏ vào máng đèn để thắp” rồi quấn tóc, “Lấy chiếc váy hoa vắt ra khỏi tường” và được sẵn sàng để đi ra ngoài. Tiếng sáo lượn lờ, cám dỗ đến nỗi tôi không thể từ chối. Cô ấy đã thực sự được tái sinh và biến đổi, thoát khỏi sự áp bức của quyền lực, thần quyền và quyền lực đế quốc.
Nhưng ước nguyện của tôi không được, cô ấy bị trói vào cột bằng một cái thúng bằng dây đay. Tôi như quên đi nỗi đau thể xác để thả hồn theo cuộc chơi. Tiếng vó ngựa đập vào tường kéo tôi về với thực tại, “tôi khóc vì nghĩ mình không bằng ngựa”. Thân phận làm dâu và nợ nần với nhà thống lý không khác gì súc vật như trâu ngựa, thậm chí còn tệ hơn.
Đằng sau con người phục tùng ấy ẩn chứa một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn. Điều này được thể hiện ở chi tiết tôi cắt dây trói của phú ông và cùng hắn trốn khỏi bông hồng. Đó cũng là một hành động cứu trợ và giải thoát. “Yêu người lân cận như chính mình” từ tận đáy lòng. Tôi đã được giải thoát khỏi sự áp bức, áp bức của kẻ quyền thế, thần thánh, của chồng. Tự do nhưng hoàn toàn hợp lý.
Xem Thêm : Tại Sao Cgv Không Chiếu Xmen
Nó không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ mà còn khắc họa thân phận của người dân miền sơn cước chịu ách nô lệ. Anh ta là một người đàn ông giàu có, mất cha từ nhỏ và không có người thân hay lý do. Anh ta trở thành món hàng mà người Thái đổi lấy gạo, nhưng “một kẻ ngoan cố không chịu ở lại miền xuôi, anh ta trốn lên núi và lưu lạc đến Hongnai”.
Mặc dù nghèo nhưng chính phủ biết cách làm việc để tự nuôi sống mình. Anh biết “đúc cày, đục cuốc, cày giỏi, săn trâu bò”. Vì vậy, nhiều cô gái cho rằng, có công “ở nhà nuôi trâu ngoan, làm giàu sớm”. Người A-tì-đàm có lòng dũng cảm, biết vượt qua khó khăn, gian khổ, nguy hiểm. Ông sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con mà phải chấp nhận thân phận nô lệ.
Một chính phủ đánh bại một phần của lịch sử không phải vì tính cách hiếu chiến, tàn bạo của ông ta, mà vì ông ta không chấp nhận sự thống trị và ngai vàng của cái ác. Sự áp bức của cường quyền đã buộc một con người tự do và không bị ràng buộc thành một con người chấp nhận số phận của mình. Chính phủ bị đánh tơi tả nhưng ông “không nói gì”. Anh ta đã chấp nhận một cuộc sống nợ nần với thống đốc. Vì mải mê bẫy chim mà anh đã để hổ vồ mất một con bò. Một người đàn ông bị trói vào cột bằng “những sợi dây leo quấn từ chân đến vai.”
Tình cảnh này khiến tôi chạnh lòng. Cô nghĩ: “Chắc chỉ đêm mai thôi, người đó sẽ chết, chết vì đau, chết đói, chết cóng, phải chết”, tôi cắt dây thừng để cứu anh ta. Hành động “ vùng vằng bỏ chạy” phần nào thể hiện khát vọng sống, chấm dứt thân phận như một phương tiện kiếm sống bên cạnh nợ nần. Anh đã thức tỉnh về khu du kích thảo nguyên và tham gia cách mạng.
Truyện “Đôi lứa” chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả. Nhà văn Đỗ Hoài Ái đã tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột nhân dân dưới hình thức cho vay nặng lãi qua tác phẩm này. Vì khoản nợ của bố mẹ, tôi đã bị cầm cố. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như tục “cúng ma” khiến người dân sa đà vào mê tín dị đoan, khiến người dân không dám thoát khỏi vòng vây để tự cứu mình. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ sự thương cảm, đồng cảm với những người lao động miền sơn cước phải chịu sự bạc bẽo, áp bức của giai cấp thống trị. Mừng cuộc sống hoa lệ ẩn chứa trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ được giải phóng khỏi kiếp nô lệ, tiến tới cách mạng, tới cuộc sống tự do.
Với lối viết cá tính hóa, tác giả đã tạo nên hai nhân vật tiêu biểu cho tính cách cao thượng nhưng lại gặp bất hạnh, hoạn nạn. me cho kiểu nhân vật ủ rũ và bìa cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền nổi bật cho các nhân vật trong truyện cổ tích là bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc Trung Quốc tuyệt đẹp: “Gió thổi vào đồng vàng”, “Xóm mèo đỏ, váy hoa đã được đem phơi trên mặt đất”. mỏm đá. Giống như một con bướm đầy màu sắc. “Đây là những chi tiết nghệ thuật, giàu tính tạo hình. Đồng thời, các hủ tục như bắt vợ, phạt vạ, kiện cáo cũng được thể hiện tốt.
Truyện được kể theo ngôi thứ ba, thay đổi góc nhìn kể chuyện từ góc nhìn xa sang góc nhìn của người trong cuộc, vừa khách quan, vừa đầy sự đồng cảm với nhân vật. . Ngoài ra, đến Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi, giàu ý nghĩa như: chi tiết tiếng sáo, tiếng móng ngựa đập vào tường… Ngôn ngữ văn xuôi giàu chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh và sức hấp dẫn của tác phẩm.
Tác phẩm “Vợ chồng” của Du Huaai mang đến cho độc giả bức tranh toàn cảnh về cuộc sống của người dân vùng Tây Bắc Trung Quốc. Các trang đã được đóng lại, nhưng tiếng vang vẫn còn. Dù đã qua đời nhưng tác phẩm của ông vẫn còn nguyên giá trị trong lòng người đọc hôm nay và mai sau.
» Đọc và tham khảo một số ví dụ về phân tích cặp đôi hoặc đọc tài liệu chọn lọc
Mẫu 2:
Tô Hoài là một nhà văn tài năng và chăm chỉ, viết nhiều thể loại. Anh ấy đã đạt được sự nổi bật ở thể loại nào. Là nhà văn của những sự thật đời thường, ông có vốn kiến thức phong phú và sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. Trước cách mạng, sáng tác của ông chủ yếu viết về những vùng quê nghèo và giới súc vật, sau cách mạng, hướng sáng tác của ông chủ yếu viết về những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là vùng Tây Bắc. Vợ chồng Ah Fu là kết quả chuyến đi thực tế của anh đến Tây Bắc Trung Quốc.
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là tôi, một cô gái trẻ đẹp nhưng có số phận vô cùng bất hạnh. Vẻ đẹp của tôi được minh chứng bằng việc “các chàng trai đến và đứng trên đầu phòng của tôi”. Em mang vẻ đẹp của một cô gái trẻ, cái tuổi đẹp nhất căng tràn sức sống. Em không chỉ xinh đẹp mà còn rất tài giỏi, tài thổi sáo của em đã nổi tiếng khắp nơi, nhiều người mê thổi sáo ngày đêm theo dõi em.
Dù nhà nghèo, lại còn nợ tiền dinh thự của quan tổng đốc, nhưng khi biết quan tổng đốc muốn con dâu trả nợ, bà liền van xin cha cho mình đi làm công. Dần mắc nợ: “Con sẽ làm ruộng ngô giả thay bố” vì cô tự tin vào khả năng và sức khỏe của mình: “Bây giờ con làm ngô được rồi” và quan trọng nhất là đứa con gái nhỏ vẫn đang mang trong lòng cô. cô khao khát một cuộc sống tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Dù có mọi điều kiện để hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc nhưng số phận của tôi lại vô cùng bất hạnh, bị các thế lực, thần quyền, cường quyền chà đạp, áp bức.
Vì nợ nần lâu ngày, con rể ông thống đốc cuối cùng cũng bị bắt quả tang là con dâu ông để quỵt nợ. Cũng chính từ lúc đó, một cuộc đời bất hạnh ập đến với cô. Ban đầu, khi mới trở lại phủ Thống đốc, tôi vẫn có một cảm giác phản kháng mong manh: cô ấy khóc hàng đêm, và cuối cùng đưa ra quyết định tự sát. Người ta chỉ muốn chết khi ý thức được nỗi đau của mình và có thể chịu đựng đến cùng. Nhưng tình yêu thương gia đình khiến tôi bỏ ý định đó vì nếu cô ấy chết thì món nợ vẫn còn và cha cô ấy sẽ phải gánh lấy. Tôi chấp nhận quay lại cuộc sống đau khổ, bất hạnh.
Khi sống trong đau khổ quá lâu, người ta sẽ mất cảm giác đau đớn và bất công là lẽ tự nhiên. Cô ấy quên đi nỗi đau thể xác khi tôi quen với cảnh làm dâu. Thời gian của tôi không đơn giản được đo bằng thời gian, mà bằng khối lượng công việc của cô ấy, hết công việc này đến công việc khác, dường như cô gái không có thời gian để nghỉ ngơi. Tôi từ một cô gái trẻ trung, sôi nổi, trở thành một công cụ lao động, mất đi ý niệm về thời gian và tuổi trẻ.
Không những thế còn phải chịu đựng nỗi đau tinh thần: “Ai có công từ xa trở về, có công thì tới dinh thự Đô Đô, Thường Tiên ngồi bên tảng đá, bên xe ngựa”, “ Luôn giữ cho cô ấy cúi gằm mặt, Với khuôn mặt buồn bã.” Và tôi cũng nghĩ mình cũng là trâu, cũng là ngựa trong cái nhà này. Ngược lại, cho thấy nỗi đau của tôi đã bị đẩy đến tận cùng. Đặc biệt là căn phòng tôi ở: “khép kín, chỉ có một lỗ vuông cỡ lòng bàn tay, mỗi khi nhìn ra ngoài chỉ thấy một vầng trăng trắng mờ mờ, không biết là sương hay là nắng”.
Nơi đây thực chất không phải là nơi có người ở, mà nó giống như địa ngục trần gian, từng giam cầm cuộc đời tôi. Và nó như một nấm mồ chôn vùi tuổi thanh xuân, tuổi trẻ và hạnh phúc của một cô gái lương thiện, mạnh mẽ. Đoạn văn này cho thấy thực tế xã hội thối nát đương thời đã chà đạp lên quyền sống, quyền sung sướng của con người. Đồng thời cũng là lời thương cảm cho những số phận bất hạnh dưới ách thống trị của những ông hoàng sơn cước.
Nhưng ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn tưởng như đã khô héo, không còn niềm tin ấy lại là một sức sống tiềm tàng vô cùng mạnh mẽ. Sức sống ấy thể hiện rõ nhất trong cuộc tình đêm xuân. Sự khơi dậy sức sống ấy không phải ngẫu nhiên, trước hết là do tác động của mùa xuân ấm áp và tràn ngập yêu thương, những đồi cỏ vàng óng ả phơi mình trên vách đá xòe ra như những đàn bướm sặc sỡ. Tiếp theo là rộn ràng tiếng trẻ thơ, đặc biệt là sự xuất hiện của tiếng sáo.
Tiếng sáo từ xa đến gần, lúc đầu ở bên ngoài, rồi gần như lọt vào trong tôi: “Thì thầm trong đầu”. Trong hồn tôi sống lại niềm khao khát xưa về tình yêu, về cuộc sống hạnh phúc, từ cõi tàn nhẫn và lãng quên, trở về cõi ký ức. Đồng thời, men xúc tác cũng không thể thiếu, cả bàn thờ rượu uống một hớp, một hớp một bát, say khướt ngồi yên lặng, mộng du quá khứ.
Những chất xúc tác đó đã tạo ra một chuyến đi trốn giúp tôi tìm lại chính mình. Lòng tôi lại một lần nữa được phơi bày, thứ tình cảm mà tôi tưởng chừng như đã đánh mất từ rất lâu. Tôi biết: “Tôi còn trẻ. Tôi còn trẻ. Tôi muốn thoát ra”. Nhưng sự thật là tôi muốn thoát ra mà không được, nên tôi trở về phòng.
Trong men, sự sống lại trỗi dậy. Tôi lấy một ống mỡ, lấy một mẩu và châm lửa, đó không chỉ là hành động thắp sáng thân thể đơn thuần mà nó còn tượng trưng cho khát vọng và niềm tin được tự do, được thắp sáng cho chính cuộc đời mình. Cô quấn tóc và định mặc váy đi ra ngoài nhưng bị một hành động rất thô bạo chặn lại. Tôi bị trói vào cột, nhưng anh ta chỉ có thể kiềm chế cơ thể tôi chứ không thể kìm hãm được ham muốn và sức sống của tôi. Trong đầu cô vẫn thả hồn theo tiếng sáo mà chơi. Sáng hôm sau, tôi thức dậy và tiếp tục cuộc sống dài mệt mỏi của mình.
Để trốn thoát thành công, tôi đã tạo ra một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa tôi và Apu. Ah Fu là cư dân của dinh thự Đô Đô, vì mất bò nên bị trói. Sau một đêm xuân tình, tôi rơi vào trạng thái tê liệt nhưng việc gặp Afu đã đánh thức khát vọng sống trong cô. Những giọt nước mắt “đôi mắt long lanh chảy dài trên đôi gò má sạm đen” đã tác động mạnh mẽ đến tôi, khiến tôi ý thức được nỗi đau của chính mình, sự tủi thân và cảm thương người khác. Điều này dẫn đến việc cởi bỏ sợi dây trói buộc và từ bỏ hành động tuân theo chính quyền để có một cuộc sống tự do và hạnh phúc trong tương lai.
Với nhân vật của mình, Đào Hoài đã phơi bày chân thực số phận bi thảm của nhân dân lao động Tây Bắc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi. đồng thời đồng cảm với số phận bi thảm của nhân vật tôi. Khám phá, trân trọng và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn và sống động mãnh liệt của tôi.
Ngoài vai tôi còn phải kể đến vai phủ. Một chính phủ là một người đàn ông bất hạnh, cha mẹ anh ta qua đời, anh ta trở thành một kẻ đổi chác và mất tự do từ khi còn nhỏ. Lớn lên không nhà, không tiền, không đất, không lấy được vợ. Nhưng dù vậy, một phủ cũng có những phẩm chất rất đẹp trong đó, một phủ có tự do, có lối sống mạnh mẽ, tự lập để mưu sinh, sống trong nghịch cảnh, là một người dũng cảm, tự tin và yêu đời.
Nhưng thật không may, chính phủ lại trở thành kẻ đòi nợ một cách vô lý. Cơ thể anh ta bị tra tấn, cơ thể anh ta bị sử dụng hết sức, và sức mạnh thể chất của anh ta đã giảm đi rất nhiều. Nhưng trong con người ấy luôn có một niềm khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Sau khi tôi được giải cứu, A Phúc và tôi đã cùng nhau thoát khỏi địa ngục đó để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn và tự do hơn.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật trong tác phẩm là nghệ thuật khắc họa nhân vật. Tôi là một nhân vật tình cảm và phu là một nhân vật hành động. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, và phong tục tài tình. Ngôn ngữ giản dị, linh hoạt, giàu cảm xúc, giàu tính dân tộc. Những yếu tố nghệ thuật này đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Vợ chồng A Phú Hãn là kết tinh của giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm lên án, tố cáo chế độ phong kiến chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của nhân dân ở miền núi. Ngoài ra, tác phẩm này còn mang đậm tinh thần nhân văn: đồng cảm với số phận bất hạnh của những người lao động nghèo khổ, bị tước đoạt quyền sống, phải chịu sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời, tôn trọng và ca ngợi sức sống tiềm ẩn, luôn hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
-/-
Các em vừa tham khảo dàn ý chi tiết và bài văn mẫu Phân tích truyện Vợ chồng son (SGK Ngữ Văn 12). Truy cập thư viện tài liệu văn mẫu 12 để cập nhật nhiều bài viết hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng viết chuẩn bị cho các bài kiểm tra, bài kiểm tra môn văn.
Chúc bạn học tốt!
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) | Văn mẫu 12. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn