Cùng xem Văn mẫu cảm nhận bức tranh phố huyện lúc về đêm trên youtube.
Top 3 bài văn cảm nhận bức tranh phố huyện lúc về đêm hay nhất
Xem Thêm : 51+ Hình nền Powerpoint chủ đề kinh tế chuyên nghiệp
Bài văn mẫu 1
KHUNG CẢNH PHỐ HUYỆN ẢM ĐẠM, XAO XÁC NGẬP CHÌM TRONG BÓNG TỐI ĐẬM ĐẶC
Hẳn các bạn đã từng thả hồn mình cho bóng hoàng lan rũ xuống để thưởng thức giọng văn tươi mát dịu ngọt “ngon lành như cánh bướm non” của Thạch Lam? Và với giọng văn quyến rũ ấy ông đã gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc khi miêu tả bức tranh đời sống phố huyện lúc về chiều. Hai đứa trẻ xuất bản năm 1938 in trong tập “nắng trong vườn”.
Đã gọi là nắng trong vườn thì làm sao có được những cảnh ồn ào nhộn nhịp khẩn trương nơi đô thị. Buổi chiều nơi phố huyện thật lặng lẽ và cô quạnh. Không gian êm ả đâu đó có tiếng động là tiếng của côn trùng nỉ non ngoài bãi cỏ. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Nhịp điệu câu văn như buông chùng, kéo dài gợi nỗi buồn man mác khó lí giải. Không phải tác giả giật mình nhận ra chiều đang tới mà có lẽ hình ảnh buổi chiều đã in đậm sâu trong tâm hồn người nên câu văn “chiều, chiều rồi” chỉ đọc ba tiếng nhưng tiết tấu của nó ngân vang toàn tác phẩm. Âm thanh thiên nhiên biểu hiện qua tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái bên bờ ruộng xa xa… Thạch Lam đã lấy ngày tàn làm nền bóng tối là gam màu chủ yếu, bóng tối quê nhà như phủ đầy phố huyện, phủ lên số phận cô đơn tủi cực của một số kiếp người, trong đôi mắt Liên thì con đường phố huyện thăm thẳm tăm tối, gian hàng phở của Bác Siêu, manh chiếu của người xẩm mù hay hàng nước của chị Tí đầy bóng tối. Những ánh đèn leo lét hắt ra từ những ngôi nhà phố huyện tăng thêm đêm tối mịt mù.
Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh tế và nặng lòng gắn bó với quê hương thì bức tranh quê hiện lên bình dị và có phần nên thơ. Đó là đời sống phố huyện nghèo được miêu tả chân thực, cảm xúc trữ tình đã gây cho ta buồn thương day dứt về số phận của con người.
Hình ảnh những đứa trẻ nghèo hèn nhặt nhạnh bất cứ thứ gì còn sót lại, cái người ta vứt trên nền chợ đã làm Liên động lòng thương, Liên rất muốn giúp đỡ chúng nhưng chính chị cũng không có tiền kia mà ! Cái nghèo cái đói đã cướp đi ba dự định tốt đẹp vốn có tính truyền thống “lá lành đùm lá rách” của đạo lí Việt Nam. Và ở đâu đấy còn biết bao hình ảnh thương tâm khác đang diễn ra tương tự trong âm thầm lặng lẽ… Đó là mẹ con chị Tí dọn hàng để rồi thu xếp hàng về vì chẳng có ai buồn ghé lại uống cho chị vài bát nước. Chị vẫn ngồi đó, ngồi để làm bạn với lũ ruồi, ngồi để hi vọng về một điều gì. Bác phở Siêu cũng vậy, ở xứ sở mà người ta chỉ dám mua một phần hai bánh xà phòng thì hàng của bác quả là 1 thứ xa xỉ chả ai dám mò đến…Họa chăng người ta chỉ nhắc đến nó với niềm tiếc rẻ về 1 kỉ niệm xa xôi…Qua giọng văn miêu tả ta cũng thấy rõ sự ế ẩm chán nản mòn mỏi nơi phố huyện về đêm. Có lẽ hình ảnh đau lòng hơn cả là gia đình bác xẩm mù bên manh chiếu rách. Thời buổi người ta ko còn lòng thương để lo cho cho chính mình thì làm sao bác xẩm có thể khơi gợi lòng thương từ người khác ? bác sờ sẫm cuộc đời mình trong bóng tối ? có lẽ mọi bế tắc của cuộc đời đều dồn về với bác, bác không thấy ánh sáng bình thường cuộc đời và bất hạnh hơn khi trông thấy được tương lai phía trước. Rồi lại đột ngột xuất hiện tiếng cười trong chuyện một kiểu Chí Phèo thứ 2. Đó là bà cụ hơi điên tên Thi, một cuộc đời vô chi ko nghĩa lí cũng tiếng cười man rợ.
Đó là cả cuộc sống bế tắc hoàn toàn ko vui buồn hờn giận. Cả phố huyện dường như bị tê liệt hay mắc chứng bệnh tự kỉ. Chị em Liên cũng vậy hết dọn hàng rồi lại kiểm hàng mà quanh đi quẩn lại chỉ mấy bánh xà phòng mấy món vặt cũng tạo thành “gian hàng” của chị. Chính sự lặp lại nhàm chán ấy làm cho họ không màng suy nghĩ không màng trò chuyện với nhau. Chợ huyện lạ thật , họ chỉ hỏi nhau và trả lời theo quán tình vì có chuyện gì đâu để nó với nhau. Quanh đi quẩn lại thì vẫn:
– Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
– Cô chưa dọn hàng à?
Rồi những câu trả lời dường như được sắp xếp sẵn, có khi vừa hỏi thì nó đã bật ra tiếng cười trả lời: “ối chao sớm với muộn mà có ăn thua gì”. Cuộc sống của họ như mòn đi. Mẫu đối thoại rời rạc, câu trả lời nhiều lúc giật mình ta mới nhận thấy người ta nói để có chuyện chứng tỏ mọi người đã hiểu nhau và ko còn gì để nó với nhau. Cuộc sống cô đọng, khép kín và nhạt nhẽo đến lạ lùng. Dường như sự băng hoại sắp sửa gặm nhấm ấy nếu họ ko có một thứ đó là lòng tin, niềm hi vọng. Phải, dù trong lòng đêm heo hút hay bán buôn ế ẩm nhưng họ vẫn tin tưởng vào một điều gì đó dù rất mơ hồ. Khi con người ta gặp nhiều đau khổ thì cần có 1 niềm tin để sống cần phải hi vọng dù đang thất vọng.
Phân tích 2 đứa trẻ cảnh đêm khuya
Bài văn mẫu 2
BÀI VĂN PHÂN TÍCH 2 ĐỨA TRẺ CẢNH ĐÊM KHUYA HAY NHẤT
Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. “Dưới bóng hoàng lan’’, “Nhà mẹ Lê”, “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ”… là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam.
Truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”, nhà xuất bản “Đời tay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.
Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.
Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông” … Cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê. “phương Tây đỏ rực như trời cháy…”, “Một chiều êm ả như ru” có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhảy kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo ve trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, biểu lộ một tấm lòng sâu nặng gắn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.
Nhưng “Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiều tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ nhạy cảm của hai đứa trẻ – hai chị em Liên và An.
Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quán thuốc sơn đen, cô thấy “lòng buồn man mác”, đôi mắt “bóng tối ngập đầy dần” và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: “Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách…”. Cát trên phố “lấp lánh từng chỗ”, đường “mấp mô thêm” trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ “vãn từ lâu” là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi “nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng nó.
Cái nghèo là cảnh đời chung cua mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là “mùi riêng của đất, của quê hương”. Đó chính là mùi vị của cái “Ao đời”, của lầm than và nghèo khó. Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. “Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng và trong ngõ đi ra”. Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau “đội cái chõng trẽn đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc…”. Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm” mà “chả kiếm được bao nhiêu!”. Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong truyện “Gió lạnh đầu mùa” : mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh… Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương. Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật, ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con ngồi trên đất “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu “kĩu kịt”, bóng bác “mênh mang ngã xuống được một vùng…”.
Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực. Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa “ngọn lửa xanh biếc, nát mặt đất như ma trơi”, tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi đoàn tàu đến gần, vụt qua “các toa đèn sáng trưng”, rồi nó “đi vào đêm tối. để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng…” Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát. bừng sáng lên khoảnh khắc, để rồi sau đó, “từ phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về”. Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gi tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.
Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ có đêm khuya, “tiếng trống ấm cảnh và tiếng chó cắn”. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố hụyện nghèo. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về dĩ vãng, đồng thời cũng đóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín.
Bài văn mẫu 3
PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH PHỐ HUYỆN LÚC ĐÊM KHUYA TRONG HAI ĐỨA TRẺ LỚP 11
Trong văn học, thơ ca, phong cách riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ chính là điểm thu hút độc giả và tạo nên thành công cho riêng họ và nhà văn Thạch Lam chính là một ví dụ như vậy. Một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam và đã góp phần không nhỏ vào thành công của nhà văn là tác phẩm “Hai đứa trẻ”, trong đó bên cạnh hai nhân vật chính, người đọc cũng vô cùng ấn tượng với bức tranh phố huyện lúc về đêm được tác giả kì công dồn nhiều tâm sức.
Được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938, có thể nói rằng “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Thạch Lam. Khác với nhiều nhà văn khác trong tác phẩm của mình luôn tập trung xoay quanh một hay nhiều nhân vật chính, trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chẳng tập trung xây dựng cốt truyện cho nhân vật chính của mình mà ông tập trung miêu tả khung cảnh là chính, vì vậy mà xuyên suốt tác phẩm, chúng ta có thể thấy rõ ràng khung cảnh phố huyện nơi hai chị em Liên đang sinh sống tại nhiều thời điểm trong nhà. Và khi những ánh nắng cuối cùng trong ngày chợt tắt, cuộc sống của những người dân nơi phố huyện vẫn chưa ngừng lại. Nhưng cuộc sống về đêm ấy chẳng tấp nập, sôi động như ta tưởng mà có chút gì đó buồn man mác, càng nổi bật hơn cuộc sống bình dị, lam lũ của những người dân nơi phố huyện.
Ngay từ những dòng văn đầu tiên mở đầu câu chuyện, Thạch Lam đã cho độc giả thấy được khả năng quan sát tài tình và ngòi bút tài hoa của mình bằng cách vẽ lên một bức tranh đơn giản mà đẹp đến không ngờ, cũng những sự vật mà hằng ngày chúng ta vẫn thường thấy nhưng qua trang văn của Thạch Lam, chúng bỗng dưng như biến thành khung cảnh của một câu chuyện cổ nào đó với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn; dãy tre làng nước trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Nhà văn đã rất tinh tế khi điệp từ “chiều”, tạo cảm giác bóng tối như lan nhanh hơn mà thấm đẫm tâm hồn bé Liên, âm thanh “êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng” làm trong lòng cô bé dậy lên “nỗi buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn”.
Trời đã muộn, phiên chợ phố huyện cũng đã “vãn từ lâu”, “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, làm trở lại những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá dứa” và “mùi âm ẩm bốc lên”. Rõ ràng là một phiên chợ huyện thế nhưng khung cảnh ấy lại tiêu điều, đơn sơ quá mức, càng làm nổi bật thêm sự nghèo khó, lam lũ của người dân nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh những đứa trẻ nhà nghèo lom khom đi lại, tìm tòi, hi vọng bắt được một chút gì đó có giá trị còn sót lại sau phiên chợ ấy càng làm độc giả thêm trăn trở, xúc động.
Và rồi sự nghèo khó, đơn sơ của nơi phố huyện này được bộc lộ rõ nhất khi hình ảnh sinh hoạt của người dân nơi đây lần lượt được tác giả miêu tả. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí xách điếu đóm, đội chõng tre dọn hàng nước mặc dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Chắc hẳn sẽ có độc giả nghĩ rằng nếu đã chẳng thể kiếm lời được từ việc ấy thì tại sao lại không bỏ nó đi để tìm một công việc khác, thế nhưng bán nước tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng ít nhất nó là công việc mà hai mẹ con có thể nhờ nó mà kiếm được miếng cơm manh áo, bỏ nó rồi biết làm gì giữa phố huyện nghèo nàn như thế. Tiếp theo, chúng ta có thể thấy hình ảnh gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt hay hình ảnh gánh phở của bác Siêu mà đối với chị em Liên thì đó quả là một thứ xa xỉ. Phải khó khăn, lam lũ đến mức nào mà một tô phở vốn chúng ta coi là rất bình thường lại có thể trở thành một thứ đồ xa xỉ như vậy?
Không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta còn bắt gặp hình ảnh bà cụ Thi hơi điên vẫn mua rượu ở hàng Liên, bà cụ mà vẫn cất tiếng cười khanh khách rồi lẽo đẽo đi vào trong màn đêm tăm tối mênh mông và lay lắt như ngọn đèn trước gió của hàng nước chị Tí. Có lẽ cũng chính vì cuộc sống lam lũ, bươn chải cực nhọc đã đẩy một bà lão ở độ tuổi đáng được hưởng phúc của con cháu phải rơi vào một hoàn cảnh đáng thương đến thế. Những nhân vật này chỉ là một phần rất nhỏ đại diện cho những mảnh đời bất hạnh nơi phố huyện, đại diện cho cuộc sống tăm tối như màn đêm đen kịt ngoài kia của họ.
Bằng tài năng và tình thương yêu con người, Thạch Lam đã thành công vẽ lên một bức tranh phố huyện lúc về đêm với cảnh vật yên bình, thơ mộng nhưng lại là nền để khắc hoạ những mảnh đời bất hạnh của người dân nơi đây, qua đó để lại nhiều trăn trở, cảm xúc trong lòng độc giả.
Trên đây là TOP những bài văn mẫu hay nhất phân tích hình ảnh phố huyện lúc đêm khuya trong Hai đứa trẻ mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Mong rằng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em trong quá trình viết bài.
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Học tập
Lời kết: Trên đây là bài viết Văn mẫu cảm nhận bức tranh phố huyện lúc về đêm. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn