Làng Sình và lịch sử dòng tranh dân gian nức tiếng – khamphahue.com.vn

Cùng xem Làng Sình và lịch sử dòng tranh dân gian nức tiếng – khamphahue.com.vn trên youtube.

Tranh làng sình

an trấn là một trong những thị trấn hình thành khá sớm ở Nam Kỳ, nằm ven sông hương, mặt giáp sông là thanh hà, một cảng sông nổi tiếng thời các chúa ở Nam Kỳ, còn được gọi là thành phố trượt, sau này có phố Bảo vinh, một trung tâm mua sắm sầm uất nằm cạnh phố Huế. Đây cũng là một trung tâm văn hóa của cố đô, có ngôi miếu thờ trong làng, xưa là một trong những ngôi chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa. Từ giữa thế kỷ 19, Dương văn An đã nhắc đến Ô Châu gần đất liền như một điểm buôn bán sầm uất: “cầu vinh đông xe ngựa, làng quê An, tiếng gà gáy buổi sáng, thúc giục thương nhân tranh nhau. … “, hoặc” hàng xóm bát canh gà rì rào – thúc giục khách mua một, bán mười “.

Ngày nay, một ngôi làng mang tên Sình còn được biết đến là một làng văn hóa của cố đô, nơi vẫn còn lưu giữ được nghề làm tranh cổ truyền và lễ hội đấu vật nổi tiếng được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng Giêng. . lịch âm hàng năm: “dù ai đi về đâu – đến ngày trẩy hội, nhớ trở về với đấng sinh thành”. Ngoài ra, thị trấn còn có nghề làm hương, làm giống để thờ cúng. Có lẽ do những nét truyền thống đó mà tranh khắc gỗ Sình kể từ khi ra đời không thuần túy là dòng tranh phục vụ thú vui tao nhã mà chủ yếu phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, thờ cúng, dùng trong các nghi lễ cầu an, giải hạn.

Xem Thêm : 75 mẫu Tranh dán tường phòng khách 3D đẹp nhất 2022

Lễ hội vật làng Sình đi vào tranh (Ảnh: Internet).

tên khai sinh có nhiều cách giải thích khác nhau: có người cho rằng đó là dấu tích của dấu ấn Chăm như truồi, sia, lau … nhưng nếu đi từ lý giải về quá trình hình thành lịch sử gắn với kinh tế và hoạt động văn hóa của người dân có hai ý kiến. trước hết, sinh là biến thể của hình tượng, là môn võ của nhân dân. thứ hai, Sình lấy tên là chợ làng, chợ Sình, nơi nổi tiếng nhiều tôm cá đến mức thừa thãi, ươn, người ta gọi là Sình. Ra đời trong lòng người dân, tranh làng Sình chịu ảnh hưởng và mang dáng dấp của tín ngưỡng dân gian riêng biệt với những nét đặc trưng riêng trong từng chất liệu, màu sắc, chủ đề, đường nét, kiểu dáng,… theo truyền thuyết trong các triều đại từ trinh – nguyễn, trong một nhóm người tìm cách định cư ở một vùng đất thuận lợi, mr. Kỳ Hữu Hòa đã mang theo nghề làm tranh giấy mộc bản từ làng quê ra để kiếm sống. tranh làng sinh ra đời từ đó. Huế, vùng đất của nhiều tín ngưỡng dân gian như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; lễ kỵ binh; lễ “đột tử”; lễ hạ huyệt; lễ cúng tổ tiên theo nghi thức sóc vọng; lễ nhà bạt; cổng thờ thần; thờ cúng tổ tiên; … chính vì đặc điểm này mà tranh làng Sình có nền tảng để phát triển lâu dài. Hội họa được hình thành khi kinh đô Huế còn nằm trong thành phố, hội họa phát triển mạnh mẽ ngay sau đó. Tranh làng sinh hay tranh làng quê là loại tranh được in riêng từng bức với khung gỗ, mít, kền kền để tạo viền. sau khi in ra, người ta sơn chúng bằng màu làm từ vỏ sò, lá cây, tro, gạch …

Tranh làng Sình (Ảnh: Internet)

Ngay từ khi mới ra đời, tranh làng Sình có nhiều nét giống với tranh đồng hồ, nhưng “để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, lễ an cư lạc nghiệp của người dân nơi đây, các họa sĩ đã thực hiện những bức vẽ khác. Vì vậy, tranh làng Sình nổi tiếng là một dòng tranh thờ ”, nghệ nhân ky huu phuoc cho biết. Tranh làng Sình là dòng tranh chủ yếu phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của người dân xứ Huế từ bao đời nay. Nó xuất hiện trong các dịp thờ cúng và lễ hội. cúng xong thì đốt lên cúng ông bà, tổ tiên. Dù nhu cầu cao nhưng trải qua thăng trầm của lịch sử, tranh làng Sình đang mai một dần. Nghề làm tranh giấy truyền thống ở làng Sinh Mai mai một dần sau năm 1945. Do chiến tranh loạn lạc nên ít người quan tâm đến việc thờ cúng theo truyền thống và nghi lễ. tranh giấy ở làng bán không ai mua, người dân bỏ giấy mực chuyển sang nghề khác kiếm sống. Sau năm 1975, tranh Sình bị coi là văn hóa phẩm mê tín dị đoan, phụ họa cho các nghi lễ thờ cúng rườm rà,… nên bị cấm sản xuất, các bài vị chạm khắc bị dỡ bỏ và đốt bỏ. từ đó, người dân bỏ nghề, bỏ phố hoặc chuyển sang làm nghề khác, cả thị trấn chỉ còn lại ba hộ làm nghề thợ sơn gia truyền. những bản khắc gỗ để in tranh được truyền hơn vài năm nay cũng đang mai một khi thị trấn nghệ nhân này biến mất, rất khó để tìm lại những bức tranh khắc gỗ xưa. “Để bảo quản những khối gỗ của tổ tiên để lại, tôi đã phải bọc chúng trong ni lông và chôn sâu hàng chục năm trời”. Cho đến nay, nơi đây chỉ còn lưu giữ được hai bộ khối gỗ có tuổi đời hơn 150 năm. đất nước phát triển, người dân lao vào dòng xoáy mưu sinh, ít người còn giữ được tục thờ tranh bằng tranh làng quê. Với sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường, người dân Huế cũng dần quên đi mình đã từng có truyền thống tốt đẹp. việc buôn bán của thợ sơn ở đây gần như thất truyền. Năm 1996, nhà nước có chủ trương khôi phục các nghề truyền thống của làng, trong đó có tranh làng Sình. tuy nhiên, chỉ có mr. Kỳ Hữu Phước biết nghề làm tranh, quyết tâm khôi phục nghề truyền thống, anh đến từng nhà vận động mọi người tham gia. ngày nay cuộc sống thay đổi, ý thức của con người cũng thay đổi, muốn tìm về những giá trị tinh thần đã tan biến. Năm 2007, bức tranh được vinh danh là di sản văn hóa của dân tộc cần được bảo tồn và gìn giữ. Cùng với sự quan tâm của nhà nước, sự phát triển của loại hình du lịch văn hóa tại các làng nghệ nhân đã tạo điều kiện cho nghề tranh cổ của các làng được hồi sinh. Tranh của người Sình đã dần lấy lại hình ảnh và vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, xã hội của một dân tộc làm tranh truyền thống. nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều họa sĩ cũng đã khẳng định được giá trị văn hóa nghệ thuật của tranh cổ động trong đời sống nhân dân, nhất là trong đời sống tinh thần. Trước nhu cầu của thị trường, nghề làm giấy truyền thống của người Sình có cơ hội hồi sinh. những chiếc khuôn gỗ đã bị thất lạc, người dân đang tìm cách lấy lại nhưng số lượng không nhiều. Để có một chiếc khuôn khắc gỗ truyền thống, người làm tranh chỉ việc tìm những hình ảnh lưu giữ rồi tự mình làm ra những bức tranh khắc gỗ. Hiện, các họa sĩ làng Sình đã trục vớt được 25 khối gỗ để in tranh cổ động. từ chỗ đứng trước nguy cơ mai một, vài hộ, tăng lên chục hộ, rồi tăng dần lên vài chục hộ quay lại với nghề. Đến nay, làng Sình có 32 hộ làm tranh truyền thống, chủ yếu là lúc rảnh rỗi.

Tranh làng Sình đợc người dân làm tranh thủ những ngày nông nhàn, đặc biệt là dịp giáp Tết (Ảnh: Internet).

Xem Thêm : Ý Nghĩa Tranh Treo Phòng Khách ❤️ 9 Loại Tranh Hợp Phong Thủy

Tuy dòng tranh này đang được phục hồi nhưng vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của lịch sử hội nhập của nước ta. Các loại sơn dân gian truyền thống trong thời hiện đại không còn giữ được nét truyền thống, bởi nguyên liệu thô đã được thay thế bằng vật liệu công nghiệp, tiện lợi hơn gấp nhiều lần. Trước đây, tranh làng Sình được làm hoàn toàn bằng giấy dó. Nhưng hiện nay, để tiện lợi và tiết kiệm chi phí, người ta đã chuyển sang dùng giấy công nghiệp và nhuộm màu bằng thuốc nhuộm công nghiệp. chỉ mr. phuoc vẫn trung thực với chất liệu giấy và màu sắc tự nhiên. anh bảo “đó là nét đẹp, tinh hoa của nghề họa sĩ nên phải giữ gìn”. tuy nhiên, việc duy trì những nét đặc trưng ban đầu của nghề không hề đơn giản. Trước đây, các họa sĩ cũng học cách làm giấy dó, nhưng sự thay đổi của thời gian khiến người dân địa phương hoàn toàn quên mất cách làm giấy dó. Hiện tại, để làm tranh trên giấy dó, mr. phuoc phải đặt hàng từ làng dong ho. nỗi đau khôn nguôi, anh chia sẻ: “Tôi xót lắm, nhưng giờ không biết phải làm thế nào, đành chấp nhận, phải mua giấy từ nơi khác về. Nhưng tranh làm trên giấy dó bây giờ chỉ bán cho khách du lịch do giá thành cao, còn bán cho người dân địa phương để thờ cúng, chủ yếu dùng giấy công nghiệp. vì vậy, để có thể bảo tồn và phát huy hết giá trị của tranh dân gian làng Sình không phải là chuyện một sớm một chiều. kỳ tích của quá trình sáng tác những bức tranh làng sinh đã mang “những nét đặc trưng tiêu biểu cho loại hình tranh bình dân của một vùng đất”. do đó, nó cũng chứa đựng những giá trị không thể phủ nhận.

Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước bên tranh làng Sình (Ảnh: Internet)

Tranh người Sình được làm thủ công hoàn toàn. Để có một bức tranh, bạn cần trải qua 7 công đoạn, từ cắt giấy, quét điệp, in tranh lên khối gỗ, phơi sơn, pha màu, tô màu và cuối cùng là đóng nhãn. giấy được quét để làm cho nó chắc chắn và duy trì màu sắc của nó. Vỏ sò được nhập từ phá Tam Giang, sau đó người thợ sơn tràng cần cẩn thận, xay mịn, trộn với bột gạo thành lớp mịn rồi rải đều trên mặt giấy. theo mr. phuộc, xưa kia làng Sình còn gọi là làng hộ đê, cũng do có giai đoạn này. Khi nghiên cứu tranh làng Sình, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dải màu dùng trong tranh làng Sình giống với dải màu dùng trong tranh Pháp Lâm trong kiến ​​trúc kinh thành Huế: mờ giữa vàng và chàm, đỏ với ngọc, xanh với hồng, thải. nước có hổ phách. Bức tranh hoàn thiện sẽ lung linh với lớp vỏ sò, trên nền chất liệu tạo màu mộc mạc và quyến rũ, và quan trọng hơn cả là hình ảnh khi đến tay người đeo sẽ có một cái gì đó linh thiêng trong cõi thần linh. không chỉ quét thông điệp trên giấy, việc pha màu tự nhiên cũng tốn rất nhiều công sức. sinh những bức tranh con người với đủ màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng, cam, đen … chúng đều được làm bằng thực vật. nhưng để tạo ra các màu sắc khác nhau, bạn cần có công thức riêng đòi hỏi kiến ​​thức và kỹ năng. màu đỏ sẽ được tạo ra bằng rễ cây rượu lấy từ rừng sâu, trở lại màu trong nồi đất nung đỏ trong bốn, năm ngày. màu xanh được tạo ra từ hỗn hợp của hoa dành dành được thu hái vào tháng 3 và tháng 4 hàng năm và lá cây mối. vào mùa nắng thu hái lá về trộn với hoa cô đặc tạo thành màu vàng. Riêng màu tím thì khá dễ làm vì có khá ít hạt kim ngân. Tháng 5-6 hàng năm, người ta đi hái trái chôm chôm về, giã nát, vắt lấy nước có pha phèn chua để giữ màu. Màu chàm được làm từ lá lốt ngâm trong vôi cho thối, khuấy cho nổi bọt, sau đó vớt bọt, lọc, thêm nước và cô đặc. màu cam (gạch) làm từ gạch đất trộn thành bột. còn màu đen là hỗn hợp tro bếp trộn với lá ngâm rồi ủ trong một tháng. ngay cả chiếc bút dùng để tô màu vẽ cũng được làm bằng những sản vật của quê hương. Rễ dứa dại sẽ được lấy về, phơi khô, gọt vỏ, để nguyên phần bên trong dùng chổi, giữ được màu và không bị úa. Tùy theo kích thước vật liệu khác nhau mà sản xuất các loại bút khác nhau.

Các du khách nước ngoài rất thích thú về dòng tranh độc đáo này tại làng Sình (Ảnh: Internet).

Mỗi hình ảnh là một khuôn gỗ hoàn chỉnh, người họa sĩ dùng mực đen bôi lên khối gỗ, sau đó dùng giấy in hình ảnh thô. thấm nước sơn cho khô mực, sau đó cẩn thận dùng các loại màu vẽ lên bức tranh. nét độc đáo của tranh làng Sình là màu sắc, mỗi bức tranh mang một nét riêng. các sắc thái chính là xanh, đỏ, đen, vàng, tím. thiết kế màu sắc được quy định chặt chẽ nhưng không đơn điệu do màu sắc tươi sáng và đường nét tự nhiên. hệ thống chủ đề đa dạng về chủ đề, có thể chia thành ba nhóm chính: tranh nhân vật, tranh động vật và tranh đồ vật. tranh nhân vật: gồm các loại tượng bà, tượng bếp; Hình ảnh; Ông. tạm biệt, ông. doc … tượng của ông là hình thờ trên các trang mà ông treo trên xà nhà, gọi là thần hộ mệnh. chị sẽ là người giúp đỡ, giải hạn cho nữ chủ hộ. Thần hộ mệnh trong ảnh thường được thể hiện dưới dạng một phụ nữ cưỡi voi, trong khung hình chữ nhật, phía sau là hai cô hầu gái cầm quạt, hoặc đơn giản là cưỡi voi và một cô hầu cận, hoặc ngồi trên đài cao. tượng bếp (còn gọi là tượng bếp) là hình ảnh ba người đang ngồi trang bếp, đó là bà. tho và hai, mr. thong và thoi dia; xung quanh là hình ảnh các công cụ, vật dụng, người phục vụ. các hình ảnh là “sơ yếu lý lịch”, bao gồm hình ảnh người nam hoặc người nữ thay thế cho người lớn và hình ảnh một cậu bé hoặc cô gái để thay thế cho trẻ em. Ngoài ra còn có những bộ tranh thờ thần linh cầu bình an cho mọi người như tranh ông đồ gia tiên, ông đồ. dieu, mr. doc, mrs. tranh con giáp, tam hợp âm tinh … tranh con vật: là những bức tranh in hình 12 con giáp trong thập nhị địa chi trong âm lịch gồm: quý, sửu, dần, mão, thìn, dậu, mùi, thân, gà trống, tuýt và lợn. hình ảnh trâu, bò, lợn, ngựa, v.v. dùng để cúng tế hoặc treo trong chuồng để cầu cho gia súc khỏi bệnh, phát triển thành đàn hoàn chỉnh; Những bức tranh với hình ảnh của các con thú như voi và hổ được cung cấp trong các ngôi đền để thể hiện sự tôn trọng đối với các loài động vật hoang dã và cầu mong những con thú này không gây hại cho con người. đối tượng vẽ tranh: là tranh in các loại quần áo; dụng cụ; cung và tên; … hay các loại đồ tế lễ như áo của ông, bà, quân trang có in hình trang trí. Ngày nay, với nhu cầu hiện đại, ngoài những bức tranh yêu thích, người ta còn rất quan tâm đến những bức tranh trang trí, treo tường. tranh sinh giờ còn có những nội dung khác ngoài tranh thờ. Những bức tranh trang trí theo chủ đề bình dân, bát quái ra đời đã làm phong phú thêm bức tranh phố thị. dòng sản phẩm này rất được khách du lịch ưa chuộng. nó có thể là một cuộc vật lộn với các đối tượng ngồi, nằm xuống, đứng lên; hay các trò chơi kéo co nam nữ, bịt mắt bắt dê…; thì hình ảnh tám âm gồm đàn nhị, đàn nguyệt, trống, sáo, đàn nguyệt, đàn tỳ bà và đàn tranh. Mặc dù trong đời sống tinh thần của cư dân Huế, tranh vẫn hiện diện như một phần không thể thiếu, nhưng cái hồn và cái hồn xưa của một thời phồn vinh dường như đã không còn. những tấm ván cũ bị mất theo thời gian, mục nát do lũ lụt hàng năm. Cùng với sự xuất hiện của nhiều mẫu tranh bắt mắt về đồ thờ cúng cao cấp của Trung Quốc thì dòng tranh ngày càng thất truyền. hơn nữa tính chất tạm bợ của tranh làm ra chỉ để mã hóa chứ không phải để treo như tranh đồng hồ tứ quý, hàng trống, nên càng ngày tính chất chung chung, rẻ tiền của các chất liệu làm tranh ngày càng trở nên phổ biến. điều đó khiến tranh làng Sình không còn giữ được phong cách như xưa. đây cũng là một điều đáng tiếc. Vì vậy, để bảo tồn và phát huy hết giá trị của tranh dân gian Làng Sình như một nét đẹp lâu đời của vùng đất lịch sử này, làng họa sĩ cần nhiều hơn nữa những người tâm huyết với nghề, như những người thợ thủ công mỹ nghệ. Hai năm nay, thị trấn Sình ngày nào cũng đón du khách đến tham quan, tìm hiểu nét đẹp văn hóa, mua tranh làm quà lưu niệm. nhiều khách du lịch thậm chí còn cố gắng vẽ những bức tranh của riêng họ. Đây cũng là hoạt động xúc tiến du lịch, quảng bá các sản phẩm nghệ của thị xã. và cũng là mong muốn của người dân địa phương có cơ hội bảo tồn, phát huy và phát triển nghề buôn bán cổ của ông cha ta để lại.

Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Vẽ

Lời kết: Trên đây là bài viết Làng Sình và lịch sử dòng tranh dân gian nức tiếng – khamphahue.com.vn. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn

Related Posts

Một số ý tưởng vẽ hay ho cho trẻ nhỏ

Một số ý tưởng vẽ hay ho cho trẻ nhỏ

Đối với trẻ mẫu giáo và những trẻ nhỏ hơn, vẽ dường như là một trong những cơ hội tốt để thổi hồn vào sự sáng tạo….

đàn tranh tiếng anh là gì

” Đàn Tranh Tiếng Anh Là Gì, Nghĩa Của Từ Đàn Tranh Trong Tiếng Anh

đàn tranh tiếng anh là gì Có thể bạn quan tâm Top 12 Cách Vẽ Tranh Múa Lân, Top 12 Cách Vẽ Đầu Múa Lân Mới Nhất…

Phát động cuộc thi vẽ tranh cho thiếu nhi với chủ đề &quotem yêu Việt Nam

Phát động cuộc thi vẽ tranh cho thiếu nhi với chủ đề &quotem yêu Việt Nam

Chiều nay (9/10), Cuộc thi Mỹ thuật Thiếu nhi Việt Nam “Cảm xúc của em” mùa thứ 3/2022 đã được tổ chức tại Hà Nội với chủ…

Vẽ tranh Trung Thu đẹp, đơn giản và ý nghĩa nhất

Vẽ tranh Trung Thu đẹp, đơn giản và ý nghĩa nhất

Tết Trung thu (Tết Trung thu) là một lễ hội được tổ chức vào ngày mười lăm tháng tám âm lịch. Là một trong những ngày Tết…

Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế - Chuyên Tư Vấn Luật

Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế – Chuyên Tư Vấn Luật

Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế có nghĩa là các bên tranh chấp thực hiện các biện pháp giải quyết i> thông qua các phương…

Vẽ di tích, thắng cảnh cố đô trên đường vào thôn - Ngôi sao

Vẽ di tích, thắng cảnh cố đô trên đường vào thôn – Ngôi sao

than ấp được dự đoán sẽ là điểm check in mới của nhiều bạn trẻ trong thời gian tới nhờ những bức tường đầy màu sắc. Đường…