Cùng xem Tiểu luận luật hình sự dấu hiệu tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm trên youtube.
Download tiểu luận Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm. tội phạm đang ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính đa dạng và phức tạp, điều này đã gây nên sự hoang mang lo ngại cho toàn xã hội.
kiểm tra dịch vụ viết luận văn, chat qua zalo để có bài làm chất lượng cao
lời nói đầu tiểu luận về luật hình sự, các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
Pháp luật là công cụ của nhà nước để quản lý xã hội. trong đó, luật hình sự là ngành luật đặc biệt của hệ thống pháp luật nước ta, tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội và quy định các hình thức xử lý hình sự; căn cứ và điều kiện của trách nhiệm hình sự, hình phạt, biện pháp tư pháp và các thiết chế pháp lý hình sự khác…. trong luật hình sự, bản chất của tội phạm được phản ánh thông qua 4 yếu tố cấu thành tội phạm, 4 yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau và được coi là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự (tnhs) người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất kỳ tội phạm nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, giữa biểu hiện bên ngoài và quan hệ tâm lý bên trong, là hoạt động cụ thể của con người xâm phạm hoặc có ý định xâm phạm các quan hệ xã hội nhất định.
do đó, trong thực tiễn, vì những lý do chủ quan hoặc khách quan khác nhau, việc xác định chính xác các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm không rõ ràng, cụ thể và thiếu thống nhất, dẫn đến tình trạng người tiến hành tố tụng không hiểu và áp dụng sai định nghĩa tội phạm và quyết định hình phạt. do đó đã hạn chế hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ án hình sự, tiếp tục xảy ra tình trạng xét xử oan, sai đối với người có hành vi, bỏ lọt tội phạm; nhiều vụ án hình sự không được giải quyết theo đúng trình tự pháp luật, án tồn đọng có dấu hiệu gia tăng, v.v. do đó, việc nghiên cứu “ chùm câu hỏi lý luận và quy phạm pháp luật” luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm ” là cần thiết, khách quan và đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới tư pháp hiện nay trong Việt Nam để xét xử luật hình sự
đọc thêm == & gt; tiểu luận về luật tố tụng hình sự khởi tố vụ án hình sự
đọc thêm == & gt; Chuyên đề tốt nghiệp: tội cướp tài sản trong luật hình sự, hoặc
nội dung tiểu luận luật hình sự, các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
1. lý thuyết chung về tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
– khái niệm tội phạm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội phạm được định nghĩa như sau: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự. do người có năng lực tội phạm, pháp nhân thương mại thực hiện xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, trái chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, vi phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, vi phạm các lĩnh vực khác của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
– các yếu tố và dấu hiệu cấu thành tội phạm
Các yếu tố và dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự bao gồm:
nhóm các dấu hiệu cần thiết để cấu thành tội phạm: các dấu hiệu này được quy định rõ ràng trong luật hình sự và cần thiết đối với mọi tội phạm, cụ thể bao gồm: khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
nhóm các dấu hiệu tội phạm tùy chọn. những dấu hiệu này chỉ có ở những tội phạm cụ thể đã được quy định rõ trong luật hình sự chứ không bắt buộc phải có đối với mọi tội phạm. các dấu hiệu đó bao gồm: hậu quả của hành vi phạm tội; động cơ và mục đích phạm tội; dấu hiệu đặc biệt của vật liệu đặc biệt.
2. quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
các dấu hiệu này được quy định rõ ràng trong luật hình sự và có tính chất bắt buộc đối với mọi tội phạm, cụ thể bao gồm: mặt khách quan của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
– phần khách quan của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị người phạm tội xâm phạm gây nguy hại hoặc đe dọa gây nguy hại. chẳng hạn, phạm tội gây thương tích cho người khác tức là đã vi phạm quyền được bảo vệ về sức khoẻ của nạn nhân. Có 3 loại khách thể của tội phạm: khách thể chung của tội phạm, loại tội phạm và khách thể trực tiếp của tội phạm.
– Yếu tố chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội có đủ năng lực, năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi do pháp luật quy định để chịu trách nhiệm về những sự việc mình đã gây ra. năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần để có thể xác định được người có tội khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. chỉ người có năng lực tội phạm mới có thể là khách thể của tội phạm. Người có năng lực tội phạm là người khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi đó. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015) và không trong tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật hình sự của Việt Nam). 2015) . tiểu luận luật hình sự, các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
Có thể thấy, luật hình sự không quy định rõ thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quy định trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự. do đó, điều 12 quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự : người trên 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà bộ luật hình sự có quy định khác. người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170 , 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của bộ luật hình sự.
Xem Thêm : cách khóa công thức trong excel
Cũng tại Điều 21 Bộ luật hình sự quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy có thể thấy, luật hình sự Việt Nam mặc định thừa nhận những người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nói chung và không thuộc các trường hợp tại Điều 21 Bộ Luật hình sự 2015 là có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó, các trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự đã được quy định khá cụ thể tại Điều 21 Bộ luật hình sự 2015. Có hai dấu hiệu chính để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý.
+ về dấu hiệu y tế: người không có năng lực trách nhiệm hình sự là người bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm rối loạn chức năng tâm thần.
+ Về dấu hiệu tâm lý: người không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mất khả năng hiểu biết về các yêu cầu của xã hội liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội, thực hiện, là người không có khả năng đánh giá hành vi được thực hiện là đúng hay sai, nên làm hoặc không nên làm. do đó, họ không thể không thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện các hành vi khác phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Ngoài ra, nếu người đó có năng lực nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng do mâu thuẫn bệnh lý mà không thể ngừng thực hiện hành vi đó thì vẫn bị coi là không đủ năng lực. Ngoài tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự, luật hình sự còn ghi nhận những trường hợp bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự. đây là trường hợp do bệnh tật mà khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi bị hạn chế. năng lực tội phạm hạn chế có một số ảnh hưởng đến mức độ tội phạm. lỗi của nó cũng là lỗi hạn chế. do đó, luật hình sự Việt Nam coi năng lực trách nhiệm hình sự hữu hạn là một tình tiết giảm nhẹ. tiểu luận luật hình sự, các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
– Các yếu tố khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của người phạm tội. tội phạm nào cũng được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh trong thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm có các dấu hiệu như hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả có hại, thời gian, địa điểm, quan điểm, phương pháp, phương tiện, công cụ phạm tội.
Trong số các dấu hiệu của mặt khách quan, dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi tội phạm. nếu không có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có tội phạm, do đó, Điều 8 Bộ luật hình sự quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội làm tổn hại đến các mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi nguy hiểm của chủ thể, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. hành vi đó bị cấm bởi luật hình sự. hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện thông qua hành động hoặc không hành động.
hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có đặc điểm chung là tính nguy hiểm, tính chất người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. các tội danh trong bộ luật hình sự rất đa dạng nên các hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đa dạng. có một hành vi nguy hiểm duy nhất thì để phạm tội, người phạm tội chỉ cần thực hiện một hành vi do pháp luật quy định. thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có tính chất là tội phạm tổng hợp, để phạm tội người phạm tội phải thực hiện nhiều hành vi, hay nói cách khác, tội phạm tổng hợp là tội phạm do nhiều hành vi thực hiện như tội trộm cắp tài sản. người phạm tội trộm cắp tài sản thực hiện đồng thời hai hành vi dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực đe dọa hoặc dùng thủ đoạn khác và hành vi thứ hai là cưỡng đoạt tài sản. tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm được gọi là tiếp tục phạm tội. đây là trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi cùng một loại, mỗi hành vi có tính chất nhỏ, mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, nhưng khi tổng hợp tất cả các hành vi lại thì tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội. . thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như các quy định của bộ luật hình sự còn có những hành vi kéo dài gọi là tội kéo dài như trốn khỏi nơi giam giữ, tàng trữ trái phép vũ khí, tàng trữ chất ma tuý v.v. ma túy. tội phạm chỉ chấm dứt khi bị phát giác hoặc người phạm tội tự thú.
Hậu quả nguy hại của tội phạm là một trong những dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm, là thiệt hại do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra đối với các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. thiệt hại về vật chất là thiệt hại có thể đo lường và xác định được ở một mức độ nhất định, như chết người, thương tật theo tỷ lệ phần trăm tổn hại về sức khỏe, thiệt hại về tài sản tính bằng tiền, v.v. các thiệt hại khác mà không xác định được mức độ thiệt hại như vu khống, làm nhục các tội khác phá hoại việc thực hiện chính sách kinh tế xã hội, v.v. tiểu luận luật hình sự, các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
Hậu quả có hại rất quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. hậu quả nguy hại càng lớn thì mức độ nguy hiểm của tội phạm càng lớn. hậu quả nguy hại của tội phạm quyết định giai đoạn hoàn thành tội phạm. tội phạm có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi hành vi nguy hiểm đã gây ra hậu quả nguy hại. tội phạm có cấu thành hình thức được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội theo quy định của một điều luật cụ thể của bộ luật hình sự.
Các dấu hiệu về thời gian và địa điểm ở mặt đích của cấu thành tội phạm cho thấy tội phạm có thật tại một thời điểm và địa điểm nhất định. đây là một trong những vấn đề bắt buộc phải chứng minh trong vụ án hình sự. Hầu hết các tội phạm trong bộ luật hình sự không quy định thời gian, địa điểm nên dù tội phạm xảy ra ở thời điểm nào, địa điểm nào cũng không ảnh hưởng đến việc định tội danh. Trừ những tội cụ thể của bộ luật hình sự quy định thời gian và địa điểm, thời gian và địa điểm là những dấu hiệu đặc trưng bắt buộc phải định tội, ví dụ tội buôn lậu phải có địa điểm, qua biên giới, tội làm chết người. trong khi thi hành công vụ cần có thời gian làm nhiệm vụ, v.v.
phương thức, công cụ phạm tội là một trong những dấu hiệu khách quan. Hầu hết các tội phạm trong bộ luật hình sự không quy định phương pháp, công cụ là dấu hiệu đặc trưng để định tội nên trong trường hợp này dấu hiệu phương pháp, công cụ không phải là dấu hiệu bắt buộc. tuy nhiên, trong bộ luật hình sự có hàng loạt tội danh quy định phương thức, công cụ phạm tội là dấu hiệu đặc trưng để định tội danh, như tiểu mục a tiểu mục 1 điều 104 quy định: dùng hung khí nguy hiểm gây nguy hại cho nhiều người. Mọi người; điểm a khoản 1 điều 93 quy định về tội giết người bằng thủ đoạn có khả năng làm chết nhiều người v.v. như vậy dấu hiệu phương thức, công cụ phạm tội là một trong những dấu hiệu cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, tuy nhiên để định tội cần phải tuân theo các quy định của pháp luật.
– Yếu tố chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của người phạm tội như thái độ, tâm lý khi phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội, …
lỗi là một trong những dấu hiệu quan trọng ở mặt chủ quan, nó là nội dung cơ bản thể hiện mặt chủ quan của tội phạm, nếu không xác định được lỗi thì không thể cấu thành tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện qua 3 yếu tố: tội, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
Tội lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm của nó cho xã hội cũng như hậu quả có thể xảy ra của hành vi đó. lỗi luôn đồng hành với tội ác. lỗi có hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Căn cứ vào ý chí và lý trí của chủ thể vi phạm, khoa học pháp lý còn phân biệt lỗi cố ý gồm hai dạng: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. lỗi vô ý cũng có 2 dạng: lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức đầy đủ rằng hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đã xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả có thể xảy ra do hành vi đó gây ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn ý thức được việc để mặc cho hậu quả xảy ra. lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi mà người phạm tội mặc dù thấy hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được nên vẫn phạm tội và đã gây nguy hiểm. hậu quả cho xã hội. Sơ suất là việc người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm, hoặc phải thấy trước hậu quả nguy hiểm mới có thể thấy trước được hậu quả.
3. thực tiễn áp dụng pháp luật và một số khuyến nghị
3.1. thực tiễn áp dụng và những hạn chế của luật hình sự
Hiện nay, các bộ ngành đã áp dụng nghiêm túc và có hiệu quả pháp luật khi xác định dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm. tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thu được vẫn còn những hạn chế:
– một số thiếu sót trong việc xác định mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Trên thực tế, có hai trường hợp rất khó hiểu là tội giết người liều lĩnh và tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người. Về mặt khách quan, sự khác biệt giữa tội giết người không thành và cố ý gây hại là rất giống nhau, nhưng về mặt chủ quan, tội giết người không thành là tội phạm muốn nạn nhân chết nhưng hậu quả không xảy ra là do vô ý, ngược lại hành vi cố ý gây hại thì tội phạm chỉ muốn gây ra. làm tổn hại đến người khác, nhưng không muốn gây ra hậu quả chết người.
Xem Thêm : Phân tích khổ cuối bài thơ Ánh trăng – Nguyễn Duy – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng
Để xác định chính xác nhận thức chủ quan này, cơ quan tố tụng phải đánh giá, so sánh, phân tích toàn diện các tình tiết khách quan. tương tự, hành vi giết người và cố ý gây thương tích dẫn đến chết người cũng phải phân tích về mặt chủ quan mới xác định được. những tín hiệu từ mặt khách quan được coi là một phương pháp để xác định mặt chủ quan của người gây án. như dùng công cụ, phương tiện gì để phạm tội, mức độ nguy hiểm của công cụ, phương tiện; cách thức phạm tội, dấu vết để lại trên cơ thể nạn nhân. Cần kết hợp các dấu hiệu này với các tình tiết khác như trình độ nhận thức, độ tuổi của người phạm tội, người bị hại, tính khí hàng ngày, mối quan hệ giữa người phạm tội và người bị hại … tiểu luận luật hình sự, dấu hiệu của tội phạm, yếu tố cấu thành tội phạm
– về tình trạng không đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hiện nay, theo quy định tại tiểu mục 1 điều 13 bộ luật hình sự thì tình trạng mất khả năng nhận thức là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức. hoặc kiểm soát hành vi của một người. Như vậy, tại khoản 1 điều 13 bộ luật hình sự quy định người bị bệnh là bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cho đến nay, pháp luật vẫn chưa có lời giải thích chính thức nào đối với trường hợp thiếu năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn đều thừa nhận một người không có năng lực tội phạm khi mắc một trong các bệnh sau: tâm thần mãn tính, loạn thần, khờ khạo, bệnh sinh rối loạn tâm thần thoáng qua.
Mặt khác, ở nước ta hiện nay, hiểu biết về tâm thần học của người dân, thậm chí của cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống bệnh tâm thần cũng như việc xác định trách nhiệm hình sự. đối với người tâm thần có hành vi nguy hiểm cho xã hội. nhiều trường hợp có kết luận mâu thuẫn nhau về tình trạng không đủ năng lực trách nhiệm hình sự giữa các hội đồng giám định tâm thần khiến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là không chính xác. Thậm chí, có trường hợp cơ quan tố tụng không chấp nhận kết luận của hội đồng chuyên môn vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với tình trạng tinh thần của phạm nhân.
– Về yếu tố lỗi trong luật hình sự, trong thực tiễn tố tụng hiện nay, đối với những vụ án hình sự có yếu tố lỗi, có hai loại khác nhau mà tòa án phải lưu ý khi ra phán quyết. Loại thứ nhất là những trường hợp bị cáo bị truy tố dựa trên hành vi phạm tội mà dấu hiệu của lỗi trong cấu thành tội là lỗi không tự nguyện. đối với loại này, “người bị hại cũng đáng trách” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định loại và mức hình phạt đối với bị cáo, cũng như trong việc giải quyết vấn đề bồi thường dân sự. loại thứ hai là những trường hợp bị cáo bị truy tố về một tội mà dấu hiệu của lỗi trong cấu thành tội phạm là cố ý. đối với loại này, tình tiết “người bị hại cũng có lỗi” không có nhiều ý nghĩa trong việc giảm nhẹ mức án cho bị cáo và không phải là căn cứ để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại dân sự.
– về đồng phạm và các hành vi liên quan đến đồng phạm. về thực tiễn, bộ luật hình sự đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng cả về chính sách hình sự và kỹ thuật lập pháp, trong đó có quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. tuy nhiên, có vấn đề đồng phạm trong tội phạm của pháp nhân thương mại hay không, nếu có thì dựa trên những căn cứ, nguyên tắc nào, đây là vấn đề mà pháp luật hình sự chưa làm rõ.
Như vậy, trong quá trình áp dụng pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng có hiệu quả pháp luật hình sự, bảo đảm khách quan, chính xác, đầy đủ. Đồng thời, việc áp dụng pháp luật cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế mà pháp luật còn phát hiện, ảnh hưởng đến quá trình định khung xử phạt của tội phạm. từ đó làm rõ nguyên nhân và đưa ra giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong thời gian tới.
3.2. nguyên nhân của các vấn đề và sự thiếu hụt
– ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân chưa cao, nhiều người phạm tội mà không biết hành vi của mình là nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
– còn nhiều nội dung liên quan đến dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm còn chung chung nên khó khăn cho cơ quan pháp luật trong việc xác định và chứng minh hành vi phạm tội mà họ thực hiện.
– Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật tuy đã được thực hiện nhưng vẫn chưa bao quát được nhu cầu thực tế, nhất là ở các vùng miền núi, nông thôn, dẫn đến người dân chưa hiểu, chưa chấp hành tốt pháp luật. .
– một số cơ quan tố tụng chưa thực sự đề cao tinh thần trách nhiệm và quyền hạn.
– không có mối quan hệ chặt chẽ và nhất quán giữa các cơ quan hành pháp; việc xác định thẩm quyền chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn trong việc trao đổi thông tin và phối hợp giải quyết vụ việc.
– điều kiện và cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn hạn chế.
3.3. một số khuyến nghị
– Để giải quyết những bất cập trong giám định pháp y tâm thần, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý những sai phạm trong hoạt động giám định tư pháp để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động giám định tư pháp. . quy định rõ hậu quả và các chế tài pháp lý đối với việc xử lý vi phạm đối với những người và tổ chức cố tình không tuân thủ các tiêu chuẩn chuyên môn của sinh vật thực hiện quy trình. Đồng thời, có thể học tập kinh nghiệm của một số nước về việc xây dựng định mức, chế độ đối với người bị buộc phải đi chữa bệnh tại trại giam nên không có nhiều trường hợp bị cáo không đủ năng lực trách nhiệm hình sự. / p>
– Hoàn thiện khái niệm tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 8 quy định: “…. Pháp nhân thương mại cố ý hoặc không cố ý xâm phạm quyền độc lập, … ., vi phạm quyền con người, … “. Có thể thấy, về cơ bản, nội dung của điều luật này không thay đổi so với nội dung khoản 1 Điều 8 Luật 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, chỉ bổ sung. các cụm từ “hoặc pháp nhân thương mại” và “vi phạm.” vi phạm nhân quyền “và nếu không điều chỉnh thêm, quy định như vậy sẽ làm cho luật không chính xác, bởi vì, trong khái niệm này, chủ thể của tội phạm được định nghĩa là thể nhân thương mại và pháp nhân , mà chỉ xác định tư cách chủ thể của cá nhân (người có năng lực hành vi phạm tội) chứ không xác định được tư cách chủ thể của pháp nhân thương mại đó (chỉ yêu cầu nhận lỗi). Công ty thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “tấn công độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, chống chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa của đất nước, quốc phòng, an ninh, bảo vệ xã hội”. an ninh trật tự, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, vi phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm các lĩnh vực khác của trật tự xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này thì phải bị xử phạt ”. tuy nhiên, theo điều 74, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm đối với một số tội phạm, chủ yếu là kinh tế và môi trường, chứ không phải tất cả các tội được quy định trong blhs.
kết luận tiểu luận luật hình sự dấu hiệu tội phạm, yếu tố cấu thành tội phạm
nhà nước sẽ không tồn tại nếu không có pháp luật, pháp luật là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lý xã hội và duy trì chế độ chính trị. nếu không có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội sẽ không ổn định. Trong tình hình hiện nay, tội phạm ngày càng gia tăng về số lượng, đa dạng và phức tạp đã gây hoang mang, lo lắng trong toàn xã hội. do đó, việc xác định một hành vi nhất định có phải là đối tượng của luật hình sự hay không là vấn đề được những người thực thi pháp luật nói riêng và mọi người trong xã hội nói chung đặc biệt quan tâm.
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm làm căn cứ pháp lý để chịu trách nhiệm hình sự và căn cứ để định tội danh, vì một hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự và chế tài tương ứng khi hành vi đó đáp ứng đủ các dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm. và ngược lại, tình tiết có dấu hiệu của tội phạm nhưng không thỏa mãn một trong các dấu hiệu của tội phạm sẽ được coi là không phạm tội và không phải chịu trách nhiệm hình sự. điều này phù hợp với nguyên tắc “không có tội, không có tội” theo điều 2 của bộ luật hình sự, “chỉ người nào phạm tội do bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”
Như vậy, qua quá trình điều tra đã làm rõ những câu hỏi lý luận cơ bản về tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm; thực tiễn thi hành và những hạn chế của pháp luật trong việc quy định các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm; sau đó giải thích lý do và đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự.
danh sách tham khảo các bài tiểu luận về luật hình sự, bằng chứng phạm tội, các yếu tố cấu thành tội phạm
- bộ luật hình sự năm 1999, bộ luật hình sự năm 2009, bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- ts.pham van beo, bộ luật hình sự Việt Nam – tập 1 (phần chung ), nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2009.
- nguyễn ngọc hoa, tội phạm và tội phạm, nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội, 2006.
- trần văn biên, đình thế hưng (đồng chủ biên). 2017. Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Tp. hcm.
- le văn học. 2005. Những vấn đề cơ bản trong Khoa học Luật Hình sự – Phần chung (Chuyên khảo), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 147, 357, 533, 537, 627 – 632.
- nguyễn quy công (2010), “về trách nhiệm hình sự của pháp nhân”, tạp chí nhà nước và pháp luật, số 10, tr. 82-84.
- tran van cuong. 2016. “về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự năm 2015, tạp chí nhân dân & amp; luật, số 6.tr.50-54.
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
Lời kết: Trên đây là bài viết Tiểu luận luật hình sự dấu hiệu tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn