Cùng xem Mật mã nghệ thuật trong bài thơ Tây Tiến trên youtube.
Bài viết này cố gắng đi tìm mã nghệ thuật của bài thơ “Tây tiến” của nhà thơ Quảng Dũng từ góc độ liên tưởng.
Nếu so thơ với cây thì đó phải là cây đại thụ của nền thơ ca yêu nước những ngày đầu chống Pháp. Cây đại thụ ấy càng được khẳng định bằng những tình cảm cao cả, bằng những vần thơ đượm đà, đa dạng và thống nhất, bằng những giọng điệu tài hoa, tài tử và lãng mạn. Bài thơ có nhiều ẩn ý, được mã hóa bằng mật mã riêng.
Trong đó, đoạn đầu tiên là gốc của cây phía tây. Mã nghệ thuật của nó là từ “nhớ”. Ví dụ, phần thứ hai và thứ ba: vào đêm Lễ hội pháo hoa, khoảng cách giữa các cây là một thân cây, và mã nghệ thuật của phần này là từ “lửa”. Nếu hoa của cây là số 3, bí ẩn của nghệ thuật được ẩn giấu đằng sau hình ảnh của “giấc mơ”. Hơn nữa, nếu khổ thơ cuối là trái cây miền Tây thì “mùa xuân” chính là mật mã nghệ thuật của bài thơ này. Bạn có thể tóm tắt mã nghệ thuật của Cây Tây một cách ngắn gọn:
“Ghi nhớ” – Phần 1 – Nguồn gốc
“boom” – Câu 2 và 3 – Trunk
“Giấc mơ bên bờ vực” – Đoạn 4 – Cây nở hoa
“Xuân” – Câu 5 – Quả Trên Cây
Gốc
Là nỗi nhớ miền Tây – đơn vị cũ, chiến trường xưa. Trong nỗi nhớ ấy, Tây Bắc và Tây quân tiến lên, hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ nhau, phát huy điểm mạnh, tránh điểm yếu của nhau.
“Mahe xa thì đi Tây nhớ rừng nhớ chơi vơi”. Có thể cho rằng nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo tạo nên mạch ngầm phương Tây. Không có hoài niệm thì không có Tây Du, không có Tây Du thì không có hoài niệm, trôi trong lòng như mây khói. Sau khi gọi miền tây là “đi về phía tây”, như gọi người thân, họ hàng, nhà thơ đã mở rộng không gian Tây Bắc hùng vỹ. Cách xưng hô đó khiến người gọi chỉ muốn ôm và ngửi thay vì nói chuyện. Tiếng gọi đó chỉ có thể đến từ tâm hồn trẻ trung, hơi tự do và rất lãng mạn của Quảng Đông, một tân binh ở Heshi.
Sau tiếng gọi từ phương Tây, nhà thơ gọi hai không gian qua phép điệp từ “nhớ”: không gian thực “nhớ núi rừng” và không gian mộng “nhớ chơi”. Núi rừng trong kí ức cụ thể và hữu hình, như chạm vào, như chạm vào. Đó có thể là không gian “nuốt sương”, “nuốt mây”, “dốc thăm thẳm”, “súng ngửi trời”, “hồn chạm bến bờ”… nhưng thế nào là “nhớ chơi”. Nó không thể đo đếm, nếm trải, sờ mó hay nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim nhạy cảm, tinh tế và sự đồng cảm sâu sắc. Có thể thiếu những đồng đội xa lạ trong vòng tay nằm xuống, những người dân địa phương thân thiện vẫy tay khi họ đi qua làng, hương hoa trong đêm sương mù và tiếng hát bên lửa trại. Là một gia đình, họ đến Zhoumu vì một nhiệm vụ, hoặc vì họ nhớ đến một lời hứa chưa được thực hiện. Nhớ cả trong mơ, mà trong vô thức, “nhớ chơi vơi” là một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng, một nỗi nhớ da diết.
Xem Thêm : Lời chúc valentine cho người yêu ở xa
Em cảm nhận thế nào về hương vị thơ độc đáo của “nhớ… nhớ… chơi” ở đây? Hãy tiếp tục, thử nhắm mắt lại, hít vào nhẹ nhàng, đều đặn, sâu và thở ra từ từ… sau đó nín thở trong 5 giây. Lặp lại điều này 3 lần và cảm thấy thoải mái. Đọc lại bài thơ “Tưởng bạn chơi Lâm Y”. a, nhớ – chơi – chẳng lẽ Tây tiến như cô gái miền sơn cước bí ẩn. Vì trang phục, vải vóc và cách trang điểm của phụ nữ Hà Nội khác với vẻ đẹp chỉn chu và tự trọng của cô. Bản năng bẩm sinh, nhút nhát, bí ẩn như cô gái digan exmeranda trong nhà thờ Đức Bà, đã sản sinh ra những thuyền trưởng, nhà thơ và tứ giác gù-mù-một mắt? Cô ấy đã đánh gục cả những chàng trai địa phương và quân đội phương Tây? Cô trốn nơi chân trời chạm đỉnh núi, khi ẩn hiện như giọt sương mai. Đôi khi, bản thân cô toát ra mùi hương nếp, ngọt ngào và ấm áp. Em có lúc như đóa lan rừng, lúc như bông sậy trắng tinh vắt qua núi rừng Tây Bắc. Mới nhìn qua ba chữ “nhớ chơi bời” ai cũng tưởng nhà thơ đang chơi chiêu hoặc bắt vần, nhưng không phải.
Sau nỗi nhớ ấy, núi rừng Tây Bắc lững lờ trôi, mây mù giăng giăng bảng lảng, núi nhấp nhô, thung lũng uốn lượn như rồng, đêm hội đuốc hoa rực rỡ như một đóa hoa. Chiếc moc tô thêm cái hồn của lau sậy bồng bềnh – khí phách anh dũng của người lính “rơi mõm” hay lau sậy, và thân phận cô đơn của Mahe như lời vĩnh biệt. Rồi mùa xuân…
Rơle
“Doanh trại được thắp sáng bởi những ngọn đuốc”. Từ “vang” được coi là chiếc chìa khoá mở ra những bí mật của hình tượng thơ trong khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba. “Bụp” được hiểu là động từ vỡ òa, nở mày nở mặt, lại được. Hiểu như một tính từ “to light up”. Nếu trời sáng, rất dễ tưởng tượng rằng đêm ở phía tây bắc là tối, nhưng đống lửa lại sáng. Ánh lửa trại chiếu sáng khuôn mặt của những người tham dự. Các cô gái dù không trang điểm nhưng gương mặt vẫn rạng rỡ, má không trang điểm vẫn hồng hào, môi vẫn hồng hào. Nó có đẹp không? Đẹp không mà sao tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú, tấm tắc khen “Trời ơi, bóng loáng từ bao giờ vậy?”. Nó cũng soi sáng khuôn mặt và làn da của những người lính Tây Phương, tuy là “quân xanh” nhưng trở nên rạng rỡ và khác hẳn nhau qua ánh lửa trại và qua tâm trạng xao xuyến trong lòng. Một từ duy nhất có thể gợi lên nhiều liên tưởng. Nếu có danh hiệu vua, Quan Yong có xứng đáng không?
Trở lại mật mã nghệ thuật ở vế thứ hai, từ “lõm”. Xét về vẻ ngoài rực rỡ của bữa tiệc lửa trại, gắn kết tình quân dân, vượt núi vượt đèo, vượt thác, sưởi ấm trái tim những người lính ở Tây Vực là món quà tinh thần của nhân dân. Nào là “nối nếp”, “đuốc hoa đốt hội”, “xiêm la”, “kèn lên man mác”, “cô sậu”… tất cả đã làm người lính Tây tròn mắt ngạc nhiên, sung sướng. Bởi nét văn hóa lạ lẫm nhưng lại có sự ân cần của thổ dân vùng Tây Bắc. Chính vì trang phục, cử chỉ, phong thái như cỏ cây suối nguồn của các cô gái mà những người lính trẻ như rưng rưng xúc động. Và bởi vì giai điệu du dương, giống như một bản tình ca du mục, mọi người có thể mạo hiểm trong niềm vui của trái tim họ. Mọi thứ đều lạ lẫm, mới mẻ và hạnh phúc vì đêm ân ái này. Hãy coi câu thứ hai là thân của cây tây, thì thân này mạnh mẽ, ngoan cường và ngoan cường. Đây là sự cộng hưởng của sức mạnh thể chất và ý chí, là tinh thần đoàn kết thắm đượm tình quân dân, là hậu phương vững chắc cho dân làng cả về vật chất và tinh thần.
Được đêm lửa trại vui tươi ấy nâng đỡ, hành trình của châu mộc vững vàng hơn: “Ai về châu mộc chiều sương mù ấy, có thấy hồn bay bến bờ không?” “Hồn lau sậy” Hai từ có sức lay động lòng người. Có thể đó là linh hồn của những người đồng đội đã “quên đời”, hoặc có thể đó là hoa sậy – hoa là tinh túy của cây, đẹp đẽ và quý giá nhất nên hoa là cây linh hồn của sự sống. Có hoa sậy trắng bồng bềnh cả thung lũng, lưng chừng núi, lưng chừng núi. Cũng có thể do lòng người lính miền Tây còn luyến tiếc “Hương nếp”, đêm hội “đuốc lửa”, “áo yếm”, “Keren Tiao”… nên hành trình đã đi qua. Cây cối, thực vật, bạn đồng hành, anh em, họ hàng. Khi tâm còn đó thì mọi cây cỏ coi như vô hồn. Nếu một bài thơ hay là đa nghĩa, thì “Đập nát tâm hồn” là một hình tượng thơ như vậy.
Vì thế, câu thứ hai và câu thứ ba chỉ thể hiện một mật mã của bài thơ, một chữ “bập” nhưng lại giúp ta giải mã nhiều điều bí ẩn về cảnh vật, nhân vật. Cảnh vật và con người tây tây bắc đồng bộ và hiện tại.
Hoa của cây
Nếu đốt thứ nhất đóng vai trò là rễ, chuyên tìm kiếm và cung cấp các chất dinh dưỡng đặc biệt để cây tươi tốt đơm hoa kết trái, gieo mầm cho mùa sau tràn đầy hy vọng thì đốt thứ hai và thứ ba như một thân cây vững chãi nối gốc-cành-lá-hoa-quả, đoạn thứ tư là hoa của cây cổ thụ đó. Bông hoa ấy là một bức chân dung khá đầy đặn và sắc nét, tôn trọng cá tính dũng cảm, kiên quyết của người chiến sĩ trẻ.
Trong chân dung những người lính hành quân về phía Tây, có thể thấy “Giấc mơ biên giới” là những bông hoa của cây đại thụ ấy. Những người lính, rời khỏi thành phố hoa lệ, thay đồng phục học sinh, một học sinh Heqing, mặc quân phục màu xanh, bỗng trở nên mạnh mẽ hơn, ngoan cường hơn và trưởng thành hơn một cách tự nhiên. Bản chất của một người lính không sợ chiến trường và hy sinh được thể hiện một cách sống động trong đôi mắt của anh ấy. “Mắt trừng” là đôi mắt thao thức, đôi mắt vững vàng làm tròn nhiệm vụ của người chiến sĩ yêu nước. Nhiệm vụ chính của Tây tiến quân là phối hợp với bộ đội Lào trấn giữ biên giới Việt Lào, đồng thời tiêu hao một phần sinh lực địch. Để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn này, họ phải quyết tâm và tập trung. Đôi mắt luôn là biểu tượng của tâm hồn. Họ là những tâm hồn trẻ trung đầy lý tưởng bảo vệ quê hương, đất nước nên đôi mắt của họ còn tượng trưng cho ý chí sắt đá, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Có lẽ, chính vì ý chí ấy mà các anh đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ dù gặp khó khăn như địa hình hiểm trở, thiên nhiên khốc liệt như thử thách, sốt rét, hay hy sinh vì đạn lạc. Chúng đều là những bài kiểm tra làm sâu sắc thêm tầm nhìn của họ. Đôi mắt ấy đặt vào trang phục của “đội quân xanh”, “đội quân không mọc tóc”, tư thế “dữ dội” càng làm nổi bật phẩm chất chiến binh của họ. Nếu vẻ ngoài của những cây đại thụ ở phương Tây được miêu tả qua những hình ảnh như dáng vẻ, kiểu tóc, trang phục… thì “cái nhìn chằm chằm” lại khắc họa sâu sắc nội tâm lo lắng của họ. Chân dung người lính Tây Tiến chân thực, oai hùng về hình dáng, điệu đà, nội lực. Tài năng của Guangyong chỉ có thể dùng từ “lừng lẫy” nhưng cũng đủ để diễn tả ý chí, quyết tâm và bản lĩnh của người cựu chiến binh lúc bấy giờ.
Vì có ý chí kiên cường nên dù đứng trước cái chết của đồng đội, họ vẫn không sợ hãi mà càng quyết tâm hơn: “Vứt cõi mồ, ra trận không tiếc đời đời xanh tấm áo thay anh đi trên mặt đất, sông ngựa gầm “Hành khúc cô đơn” Tất cả là hiện thực khắc nghiệt của chiến trường, nhưng bản lĩnh của người miền Tây là tất cả, họ đã đánh đổi những năm tháng đẹp nhất của đời mình để lấy hòa bình.
Quả của cây
Xem Thêm : mẫu bản kiểm điểm đoàn viên
“Xuân ấy ai về miền Tây
Hồn không trở về. “
Giống như sự nở hoa của nhà thơ Lan Weien, chân lý và triết lý nở hoa trong bài ca dao:
“Nhớ bản sương, nhớ đèo mây phủ
Nơi trái tim anh không yêu
Khi tôi ở, đó chỉ là một nơi để ở
Khi tôi xuống đất, hồn tôi quay lại”
Mảnh đất Tây Bắc trong lòng Quảng Đông đã trở thành miền ký ức và thơ ca. Khi rời miền Tây, trong nỗi nhớ miền đất nhớ, Quảng Đông đã tặng người yêu một bài thơ hoa để tưởng nhớ về miền Tây, sau này được đổi thành miền Tây trong tập “Mây đầu người”.
Mật mã nghệ thuật của khổ thơ cuối bài thơ này là từ “xuân”.
Mùa xuân theo truyền thống là biểu tượng của sự khởi đầu, màu mỡ, tương lai và sức sống. Quang dũng cũng có thể gợi nhớ về những miền ký ức, lung linh, lung linh, lăn tăn, nhưng không buồn, chỉ tô lên, không buồn, chỉ càng thêm đậm đà. tiếp sức. Mùa xuân năm 1947, Tây quân lập công, mùa xuân mừng chiến thắng của Tổ quốc, tuổi trẻ của các anh đã dành những tháng năm tươi đẹp nhất cho lý tưởng cao đẹp của mình. Ngay cả khi không có lan rừng nở hoa, nó rất thơm.
Đọc và ngẫm, không khó để thấy rằng nghệ sĩ nói chung, nhà văn nói riêng, nhà thơ nói riêng ra mắt công chúng cũng giống như người nông dân gieo hạt.
Có nhà văn đã gieo vào hai đứa trẻ một hạt giống hy vọng giống như hạt thạch anh tím. Thông qua niềm tin giữa các nhân vật, chuyến tàu đến và đi, chỉ để trở lại vào ngày hôm sau. Có những nhà văn đã gieo mầm niềm tin vào một người đàn ông sẽ luôn trung thực khi họ viết chi poo. Huấn Cao tin rằng dù có vùi dập bao nhiêu, bao gian khổ, bao nhiêu rào cản thì bản chất lương thiện của ý chí sẽ không mất đi. Nó vẫn chập chờn, chiến thắng đòi hỏi sự sống chứ không phải sự tồn tại. Hay như Nguyễn Công Hoan cho rằng Đổng Hạo có ma nhưng lại cay nghiệt, lạnh lùng, cuối cùng biên kịch vẫn gọi là sự thật, khơi dậy tình yêu, khơi dậy tình yêu.
Ở phương tây, Quang Dũng, một nhà thơ đa tài, đã gieo những hạt giống thơm một thời. Hạt giống đó được gọi là… Tôi chắc rằng người đọc không chỉ thông minh hơn mà còn kinh nghiệm và sáng tạo hơn người viết bài này để đặt tên cho hạt giống đó. và giá đỗ. Nụ hoa đó là kết tinh tình yêu tuổi trẻ tự do, lãng mạn, tài năng và nét duyên thơ của Bạch Vân Đồ. Đó còn là sự kết tinh những tinh hoa của núi rừng Tây Bắc, của lòng người Tây Bắc thơm như gạo nếp nương.
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Mật mã nghệ thuật trong bài thơ Tây Tiến. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn