Cùng xem Câu hỏi ôn tập lý luận nhà nước và pháp luật (có đáp án) [1-2021] trên youtube.
Câu hỏi ôn tập lý luận nhà nước và pháp luật
Có thể bạn quan tâm
Tổng hợp các câu hỏi tự luận về lý thuyết chung về nhà nước và pháp luật, với các câu trả lời gợi ý thường thấy trong các bài kiểm tra cuối kỳ. Hi vọng tài liệu này hữu ích với bạn!
..
Sở thích chung:
- Câu hỏi trắc nghiệm về lý thuyết nhà nước và pháp luật
- Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật – Trường Trung cấp Luật Hà Nội
- Bài giảng về Lý thuyết Nhà nước và Pháp luật
- Lý thuyết Nhà nước và Pháp luật
- Câu thứ nhất: Đối tượng nghiên cứu của lý thuyết nhà nước và pháp luật:
- Câu thứ hai: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của lý luận luật quốc gia
- Phần 3: Lịch sử Hình thành Nhà nước: Các quan điểm khác nhau về Sự hình thành Nhà nước, Cách các Quốc gia Hình thành trong lịch sử.
- Phần 4: Một số trường phái nhà nước điển hình (khái niệm, phương pháp)
- Câu thứ năm: những đặc trưng cơ bản của nhà nước, định nghĩa về nhà nước.
- Câu thứ sáu: Hình thức nhà nước: khái niệm, các yếu tố cơ bản của hình thức nhà nước, các yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến hình thức nhà nước. Ví dụ
- Phần 7: Các hình thức chính phủ: Khái niệm, phân loại và so sánh các hình thức chính phủ ở các quốc gia
- Phần 8: Hình thức cấu trúc nhà nước, thể chế chính trị, quan hệ với các nước ASEAN.
- Phần 9: Liên đoàn các quốc gia: Các khái niệm, xu hướng
- Câu 10: loại quốc gia, loại hình pháp lý, loại hình quốc gia, loại hình pháp lý
- Mục 11: Bản chất, hình thức và các đặc trưng cơ bản của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Phần 12: Chức năng của Nhà nước: Khái niệm, Phân loại, Các yếu tố quy định, Tác động đến việc xác định và thực thi các chức năng của Nhà nước, Ví dụ
- Mục 13: Các hình thức và phương pháp thực hiện chức năng nhà nước liên quan đến chức năng nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Câu 14: Chức năng của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay: khái niệm, phân loại, so sánh với chức năng nhà nước tập trung, bao cấp giai đoạn trước. .
- Mục 15: Chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
- Mục 16: Chức năng xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
- Phần 17: Bộ máy Nhà nước
- Câu 18 + 19 + 20 + 21: Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam
- Mục 20: Nguyên tắc thống nhất của quyền lực nhà nước, sự phân phối, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau của các thể chế nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
- Mục 21: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Phần 22: Tổng quan về Lịch sử Trí tuệ, Học thuyết Nhà nước pháp quyền
- Tiết 23: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và những giá trị kế thừa, vận dụng vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
- Tiết 24: Các khái niệm và đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản của nhà nước pháp quyền. Phù hợp với việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 để phản ánh các đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản của nhà nước pháp quyền
- Phần 25: Các đặc điểm cơ bản của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền
- Phần 26: Trách nhiệm và Vai trò của Nhà nước đối với Con người và Quyền công dân. Liên quan đến Hiến pháp 2013
- Phần 27: Hệ thống chính trị của Việt Nam: Khái niệm, vị trí và vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị của Việt Nam
- Phần 28: Sự hình thành luật pháp trong lịch sử
- Phần 29: Tổng quan về Trường phái khái niệm pháp lý
- Phần 30: Bản chất, các thuộc tính cơ bản của pháp luật, So sánh với các loại quy phạm xã hội, Mối quan hệ thực tiễn
- Mục 31: Chức năng của pháp luật trong mối quan hệ với thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
- Phần 32: Mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế, luật pháp và chính trị, trong mối quan hệ với hiện trạng ở Việt Nam
- Phần 33: Mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước, thực trạng ở Việt Nam
- Phần 34: Mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán, luật pháp và đạo đức; mối quan hệ thực tiễn với Việt Nam hiện nay
- Câu 36: Bản chất và vai trò của pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người trong bối cảnh xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế
- Phần 37: Các Nguyên tắc Pháp lý Việt Nam: Khái niệm, Nội dung
- Phần 38: Nhận thức pháp lý: Các khái niệm, cấu trúc (các cấp độ) của Nhận thức pháp luật, Tư duy pháp lý và Tâm lý pháp lý
- Phần 39: Các Đặc điểm Cơ bản của Nhận thức Pháp luật
- Phần 40: Nhận thức pháp lý và Luật
- Phần 41: Giáo dục Pháp luật: Khái niệm, Mục đích, Hình thức, Phương pháp, Tác dụng, Kết nối của Giáo dục Nhận thức Pháp luật
- Mục 42: Văn hoá pháp luật: Các khái niệm, các biện pháp chủ yếu để xây dựng văn hoá pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước pháp quyền và hội nhập quốc tế hiện nay.
- Câu 43: Quy phạm pháp luật: khái niệm, cấu trúc (cấu trúc), các biểu hiện pháp lý của quy phạm pháp luật
- Câu 45 + 46: Văn bản quy phạm pháp luật. (vbqppl)
- Phần 47 + 48: Hệ thống pháp luật (htpl)
- Phần 49: Hệ thống pháp luật của Việt Nam
- Phần 50: Luật pháp
- Phần 51. Thực thi pháp luật
- Phần 52. Luật áp dụng
- Phần 53: Quan hệ pháp luật: Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quan hệ pháp luật; Chủ thể pháp lý và chủ thể của quan hệ pháp luật; Năng lực và năng lực pháp luật.
- Phần 54: Cơ sở để tạo, thay đổi và chấm dứt mối quan hệ pháp lý
- Phần 54: Vi phạm: Các khái niệm và dấu hiệu cơ bản của vi phạm, các yếu tố vi phạm
- Phần 55: Trách nhiệm: Khái niệm, Đặc điểm cơ bản, Phân loại các loại trách nhiệm. Khái niệm cơ bản về trách nhiệm
- Phần 56: Cơ chế điều chỉnh pháp lý: Khái niệm, các giai đoạn của cơ chế điều chỉnh pháp lý
- Phần 57: Nêu những nét cơ bản của hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới
- Phần 58: So sánh tóm tắt hai hệ thống pháp luật: Dân luật và Thông luật
- Các quy luật cơ bản về sự hình thành, tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật: thể hiện ở sự thống nhất, thống nhất của các loại hình nhà nước và pháp luật; sự chuyển đổi từ nhà nước và pháp luật này sang nhà nước và pháp luật khác,……
- Toàn diện nhất về đời sống quốc gia và các vấn đề pháp lý như: bản chất, loại hình, hình thức, chức năng, thể chế, cơ chế hành động, hệ thống pháp luật, ý thức pháp luật và luật văn hóa …
- Hệ thống khái niệm cơ bản về nhà nước và pháp luật
- Các giá trị cơ bản của Nhà nước và Pháp luật
- Trên cơ sở phân biệt cái chung và cái đặc biệt, đi sâu nghiên cứu tính tất yếu, thường xuyên và bản chất của sự vật hiện tượng.
- Đây là một phương pháp cơ bản thường được sử dụng trong nghiên cứu.
- Phân tích là việc phân rã một tổng thể thành các yếu tố đơn giản hơn để làm rõ bản chất và đặc điểm của một vấn đề.
- Tập hợp là sự kết hợp của các yếu tố được phân tích để tìm ra các mối quan hệ tiềm ẩn cho một vấn đề.
- Đây là phương pháp cơ bản để nghiên cứu các vấn đề cơ bản.
- là thu thập thông tin khách quan về số lượng và chất lượng của các hiện tượng quốc gia và luật pháp trong quá trình vận động của nó.
- Nó là một công cụ hữu hiệu để nghiên cứu các hiện tượng quốc gia và luật pháp.
- Cảm ứng: đơn lẻ => chung.
- Giải thích: Nói chung => Được sở hữu.
- Chế độ quân chủ: Vua cai trị dân chúng
- Môn phái: Nhà thờ cai trị tinh thần, vua cai trị thể xác, vì vậy vua lệ thuộc vào giáo hội.
- Nhóm dân quyền: chủ trương nguồn quyền lực nhà nước đến từ Chúa, đồng ý phục tùng nhà vua trên cơ sở nhà vua cai trị một cách công bằng và không xâm phạm lợi ích của nhân dân.
- Theo Black’s Law Dictionary, nhà nước là hệ thống chính trị của nhân dân, do nhân dân tổ chức; hệ thống thực hiện các quyết định tư pháp và hành chính thông qua các hành động cụ thể của con người được nhà nước ủy quyền.
- Nhà nước là một tổ chức xã hội bảo vệ công lý, bảo đảm hài hòa và cân bằng giữa lợi ích của người dân và các quyền tự nhiên.
- Nhà nước là một tổ chức có quyền lực chính trị của một xã hội với giai cấp, lãnh thổ, dân cư và chính phủ độc lập có khả năng xây dựng và thực thi pháp luật để thiết lập trật tự xã hội. trong lãnh thổ của nó
- Nhà nước là tổ chức quyền lực chung trong xã hội, bao gồm một tầng lớp nhân dân tách khỏi xã hội, được tổ chức theo một phương thức nhất định và chuyên trách thực hiện quyền lực nhà nước.
- Nhà nước là công cụ quản lý xã hội
- Nhà nước là công cụ thống trị giai cấp
- Quốc gia là “người gác đêm”
- Tư cách là nhà cung cấp (Trạng thái lợi ích)
- Trạng thái Quy định
- Một quốc gia là một tổ chức có thứ bậc
- Nhà nước là một khế ước (khế ước) giữa các công dân
- Nhà nước là một tổ chức vì các mục đích riêng của nó
- Kiểu nhà nước là nhân tố quyết định, vì hình thức nhà nước phụ thuộc trực tiếp vào cơ sở kinh tế và bản chất giai cấp của nó. Ví dụ, mọi quốc gia đều có các nước cộng hòa, nhưng các nước cộng hòa chiếm hữu nô lệ khác với các nước cộng hòa phong kiến và tư sản.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội
- Tương quan lực lượng giai cấp
- Đặc điểm lịch sử, truyền thống, bối cảnh quốc tế, xu hướng thời đại.
- Đơn vị hành chính – Một lãnh thổ có chủ quyền, độc lập không có chủ quyền riêng.
- Có một hệ thống thể chế nhà nước thống nhất (chính quyền, quản lý, cưỡng chế) từ cấp tw đến d.
- Có hệ thống pháp luật thống nhất trên toàn lãnh thổ.
- Công dân có 1 quốc tịch (ví dụ: Việt Nam, Ba Lan, Pháp, Nhật …)
- Các quốc gia thành viên có chủ quyền của riêng mình, nhưng thống nhất về quốc phòng, ngoại giao và an ninh.
- Các quốc gia có chủ quyền chung và mỗi quốc gia thành viên cũng có chủ quyền riêng của mình.
- Có hai hệ thống pháp luật: các quốc gia liên bang và các quốc gia thành viên.
- Có hai hệ thống thể chế nhà nước: một là nhà nước liên bang và hệ thống kia là quốc gia thành viên.
- Công dân có hai quốc tịch (ví dụ: Mỹ, meehico, Ấn Độ …)
- Trong số 8 nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, 4 nước có chế độ quân chủ lập hiến (Brunay, Campuchia, Malaysia và Thái Lan), Singapore có chính thể cộng hòa, Myanmar là nước cộng hòa dân chủ đại diện, nhưng từ sau một cuộc đảo chính quân sự (1962- 1974 và 1988), hệ thống chính trị của Miến Điện được thành lập, và New York vẫn là một chế độ quân sự. Lào, một nước nửa thuộc địa, bắt tay vào con đường phát triển xã hội chủ nghĩa dưới hình thức một nước cộng hòa dân chủ sau khi giành được độc lập.
- Cơ cấu quốc gia của các nước ASEAN là một quốc gia duy nhất.
- Luật pháp
- Thực thi
- Luật Bảo vệ
- Tiếp tục mở rộng dân chủ cho nhân dân;
- Thúc đẩy cải cách thể chế và hành chính trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân
- Làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, phản ánh của người dân;
- Điều tra từng bước việc thực hiện dân chủ trực tiếp, trước hết là ở cơ sở;
- Tổ chức và quản lý kinh tế;
- Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học và giáo dục.
- Luật tự nhiên bắt nguồn từ quyền tự nhiên của mỗi cá nhân (là những quyền thuộc sở hữu của tự nhiên)
- Luật quốc gia: là một hình thức hoặc tài liệu giới thiệu và ban hành các quyền tự nhiên
- Pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Pháp luật hướng các quan hệ xã hội phát triển theo mục tiêu của giai cấp thống trị, trật tự phát triển theo mục tiêu của giai cấp thống trị. Các biện pháp bảo vệ và củng cố quyền lợi và địa vị của giai cấp thống trị.
- Pháp luật thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, là công cụ tổ chức đời sống kinh tế xã hội.
- Pháp luật chứa đựng các giá trị xã hội, là thước đo hành vi của con người và là công cụ để xem xét các quá trình và hiện tượng xã hội: chủ nghĩa nhân đạo; công bằng, công bằng; giá trị thông tin phản ánh điều kiện kinh tế, xã hội …
- Được hiểu để thực thi mọi cá nhân và tổ chức tuân thủ tất cả các quy định của pháp luật hiện hành. Vì pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và có giá trị ràng buộc đối với mọi người, mọi công dân cư trú trên lãnh thổ đất nước.
- Thuộc tính này được phân biệt bởi các yếu tố hiệu suất, chẳng hạn như: dự đoán các tình huống điển hình, xác định hành vi được thực thi và cung cấp cách đối phó với sự không tuân thủ.
- Xác định mối quan hệ giữa nội dung và hình thức pháp lý.
- Truyền đạt chính xác các chủ trương và chính sách của đảng thành các danh mục và cấu trúc pháp lý thích hợp.
- Các nguyên tắc pháp lý để đảm bảo hoạt động lập pháp
- Mỗi văn bản quy phạm pháp luật phải xác định rõ phạm vi điều chỉnh và phương thức điều chỉnh của cơ quan ban hành.
- Xác định phạm vi và mức độ của hoạt động lập pháp và quản lý.
- Để đạt được mục đích này, nhà nước đã đưa vào luật quyền áp dụng cưỡng chế đối với mọi đối tượng, và bổ sung tính cưỡng chế chung vào luật.
- Văn bản quy phạm pháp luật của tất cả các cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên và không được vi phạm Hiến pháp.
- Pháp luật được ban hành phải có hiệu lực lâu dài, phù hợp với quy luật khách quan, chỉ được sửa đổi, bổ sung khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi.
- Cơ cấu của nền kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của nghề luật sư.
- Bản chất và nội dung của các quan hệ kinh tế và bản chất của các cơ chế kinh tế quyết định bản chất và nội dung của quan hệ pháp luật, bản chất và phương pháp của các quy định pháp luật.
- Hệ thống kinh tế và khu vực kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và tồn tại của các thể chế, tổ chức và thể chế pháp luật, đến phương thức và thủ tục hoạt động của các cơ quan hành pháp. hợp pháp.
- Tác động tích cực: Pháp luật nếu được ban hành phù hợp với các quy luật kinh tế xã hội sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển của các quá trình kinh tế và cơ cấu của nền kinh tế.
- Ảnh hưởng xấu: Khi pháp luật không phù hợp với quy luật phát triển kinh tế xã hội và được ban hành theo ý muốn chủ quan của con người, nó sẽ kìm hãm toàn bộ nền kinh tế hoặc một bộ phận của nền kinh tế. Kinh tế (cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, cũng như các mệnh lệnh và quy định hành pháp đối với hoạt động kinh tế, làm nền kinh tế phát triển chậm lại, dẫn đến khủng hoảng).
- Bộ máy nhà nước là toàn bộ hệ thống từ trung ương đến địa phương, bao gồm các loại cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp … Nó là một thể chế phức tạp gồm nhiều bộ phận. Trong quá trình xác lập và thực hiện quyền lực nhà nước, cần làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và phương thức tổ chức hoạt động, để thực hiện cơ chế đồng bộ, cần hành động một cách vững chắc và đúng pháp luật.
- Ngược lại, bộ máy nhà nước cũng ảnh hưởng đến pháp luật. Một bộ máy nhà nước hoàn chỉnh đại diện cho các giai cấp tiến bộ trong xã hội sẽ đưa ra hệ thống pháp luật phù hợp với nhà nước, phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế – xã hội.
- Pháp luật luôn tạo môi trường ổn định cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia. Sự phát triển của quan hệ ngoại giao đòi hỏi luật pháp của các quốc gia khác nhau phải thay đổi theo thời gian thay đổi của các quốc gia.
- Ví dụ, trong quá trình cải tổ đất nước, chúng tôi đã có một chính sách đối ngoại khép kín. Hệ thống pháp luật của chúng tôi cấm đầu tư nước ngoài vào các hoạt động. Trong thời đại mở cửa và quốc tế hóa hiện nay, nền ngoại giao nước ta đã có những thay đổi cơ bản. Chúng tôi đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia và khu vực, và trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới vào tháng 11 năm 2007. Chúng tôi có nhiều chính sách thu hút đầu tư nước ngoài.
- Pháp luật thể chế hóa các chính sách của đảng cầm quyền, ngay cả khi ý chí của đảng cầm quyền trở thành ý chí của nhà nước. Đường lối chính sách của đảng có chức năng định hướng nội dung và phương hướng phát triển của pháp luật.
- Ví dụ: Nhiều năm trước đây, do định hướng chính trị, pháp luật đã xây dựng và củng cố cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp …
- Các nguyên tắc đầu tiên áp dụng cho các cá nhân
- Nguyên tắc thứ hai được áp dụng đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong một số lĩnh vực nhất định. Các thiết chế nhà nước chỉ được hoạt động trong phạm vi chức năng và năng lực do luật định.
- Phần giả định: là phần xác định địa điểm, thời gian, chủ thể, tình huống và tình huống có thể xảy ra trong thực tế, nếu tình huống, tình huống xảy ra thì chủ thể phải tuân theo quy tắc ứng xử được quy định trong bộ quy tắc. Phần này phác thảo nơi mã được áp dụng.
- Quy định: là phần cốt lõi và thiết yếu của các quy phạm pháp luật. Nó đặt ra các quy tắc ứng xử mà mọi người phải tuân theo khi phát sinh các điều kiện quy định giả định.
- Các biện pháp trừng phạt: là phần chỉ ra các biện pháp mà nhà nước sẽ thực hiện để tác động đến những người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng Quy tắc ứng xử được đề cập trong phần này. Điều khoản quy định và hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu nếu không thực hiện đúng quy định.
- Nghị quyết của Quốc hội
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Nghị định, Nghị quyết
- Chủ tịch: mệnh lệnh, quyết định
- Chính phủ: Nghị định.
- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định
- Ủy ban Tư pháp Tòa án Nhân dân Tối cao: Nghị quyết
- Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao: Thông báo.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Thông báo.
- Các Bộ trưởng, Thủ trưởng Cơ quan cấp Bộ: Thông báo
- Quản lý Kiểm toán Nhà nước: Quyết định
- Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan trung ương của Chính phủ và tổ chức chính trị – xã hội.
- Thông báo chung giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng với Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng với Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. – Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
- Luật (đơn vị cơ bản trong hệ thống cấu trúc)
- Hệ thống pháp luật (tập hợp các luật và quy định có cùng bản chất)
- Ngành luật (tập hợp các quy phạm pháp luật có đặc điểm chung điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực của đời sống xã hội). Việt Nam có 12 ngành luật: Hiến pháp, Luật hành chính, Luật tài chính, Luật ngân hàng, Luật đất đai, Luật dân sự, Luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật hình sự, Luật truy tố, Luật hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật kinh tế và môi trường Pháp luật.
- Lỗi là trạng thái tinh thần, thái độ của chủ thể đối với hành động của mình và hậu quả xã hội của hành vi đó dưới hai hình thức: cố ý hoặc vô ý. Trái tim.
- Động cơ trái pháp luật là động cơ tâm lý bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật.
- Mục đích của hành vi trái pháp luật là mục tiêu tâm lý hoặc kết quả cuối cùng mà chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật.
..
Xem lại các câu hỏi về lý thuyết nhà nước và pháp luật
Xem lại các câu hỏi về pdf lý thuyết nhà nước và pháp luật
Nếu quá trình tải tài liệu bị gián đoạn do đường truyền không ổn định, vui lòng để lại email trong phần Nhận xét bên dưới bài viết để nhận tài liệu. Chúng tôi xin lỗi vì đã mang đến cho bạn sự bất tiện!
Đề cương Rà soát Lý thuyết Nhà nước và Pháp luật
Mục lục: (nhấp vào từng chương để chuyển nhanh đến văn bản chính)
Phần 1 – Trạng thái
li>
Phần 2 – Pháp lý
Phần 1: Lý luận về Tiểu bang
Mục 1: Đối tượng nghiên cứu của lý luận nhà nước và pháp luật?
Bao gồm các nhóm câu hỏi cơ bản sau:
= & gt; Khác với các ngành và luật khác, lý luận nhà nước và pháp luật nghiên cứu những vấn đề cơ bản, phổ biến, toàn diện và có hệ thống nhất trong đời sống nhà nước và pháp luật; đó là về sự hình thành, vận động và phát triển của nhà nước và pháp luật. Luật cơ bản và cụ thể, trọng tâm là luật quốc gia và xã hội.
Câu thứ hai: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của lý luận luật quốc gia?
1. Phương pháp
Phương pháp luận là xuất phát điểm, hệ thống cách thức, phương pháp và phương tiện nhận thức hiện tượng khách quan; phương pháp nghiên cứu vấn đề.
Phương pháp luận của pháp luật nhà nước là điểm xuất phát để tiếp cận đối tượng nghiên cứu của pháp luật nhà nước; quan điểm định hướng cho quá trình nhận thức và thực hành các hoạt động pháp luật xã hội; các nguyên tắc và phạm trù hình thành sự hiểu biết về nhà nước và các hiện tượng pháp luật dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và hệ thống phương pháp luận duy vật lịch sử.
Hệ tư tưởng lý luận và lý luận pháp luật của nước ta là Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Phương pháp Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật:
– Phương pháp tóm tắt khoa học:
Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp và đa dạng, vì vậy cần có các phương pháp nghiên cứu khoa học trừu tượng để xây dựng các khái niệm, đặc điểm, quy luật và xu hướng.
-Phương pháp tổng hợp phân tích:
– Phương pháp thống kê:
– Phương pháp quy nạp và suy diễn:
–Phương pháp so sánh: Phương pháp này ngày càng được sử dụng rộng rãi, xem xét các hiện tượng quốc gia và pháp luật trong mối quan hệ so sánh để tìm ra điểm giống hoặc khác nhau.
– Phương pháp xã hội học: có thể nhận thức và đánh giá một cách khách quan tình trạng và hiện tượng pháp luật trong đời sống thực.
– Phương pháp Tiếp cận Hệ thống: Nghiên cứu Cơ bản và Ứng dụng về Nhà nước và Pháp luật. Bản thân nhà nước và pháp luật với tư cách là hai hiện tượng cơ bản của đời sống xã hội cũng có tính hệ thống.
Phần 3: Lịch sử hình thành nhà nước: Các quan điểm khác nhau về sự hình thành nhà nước, lịch sử hình thành các quốc gia như thế nào?
1. Thời kỳ cổ đại và trung cổ:
-Chính quyền: Thần là người sắp xếp trật tự xã hội, tạo ra nhà nước để bảo vệ trật tự chung
– Thuyết phụ hệ: Nhà nước là kết quả của sự phát triển của gia đình, và quyền lực nhà nước tương tự như chế độ phụ hệ mở rộng.
2. Thế kỷ mười sáu – mười tám:
– Lý thuyết khế ước xã hội: Sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của hợp đồng giữa những người sống trong một quốc gia không có nhà nước, trong đó mỗi người giao một phần quyền tự nhiên của họ cho nhà nước để nhà nước bảo vệ xã hội với tư cách là toàn bộ lợi ích chung. Vì vậy, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
– Thuyết độc ác: Nhà nước được tạo ra bằng cách sử dụng bạo lực của một thị tộc chống lại một thị tộc khác. Đây là một hệ thống thể chế đặc biệt để thị tộc chiến thắng nô dịch những kẻ thua cuộc và nó là công cụ cho những kẻ thua cuộc. Kẻ mạnh lấn át kẻ yếu.
– Thuyết Tâm lý: Nhà nước xuất hiện bởi vì con người cần dựa vào các nhà lãnh đạo và tăng lữ, và nó là một tổ chức siêu phàm có sứ mệnh lãnh đạo xã hội.
– Khái niệm “Các quốc gia siêu Trái đất”: Các xã hội và quốc gia loài người xuất hiện do các nền văn minh ngoài Trái đất.
3. Thế kỷ thứ 10 đến nay:
– Học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lê-nin: sự tồn tại của nhà nước là một tất yếu khách quan, không phải là một thực thể tồn tại mãi mãi, không thay đổi mà sẽ hình thành, phát triển và chết đi.
– Đời sống hiện thực: Nhà nước ra đời trên cơ sở tan rã của các công xã nguyên thủy, xuất hiện khi nền sản xuất xã hội tạo ra sản phẩm thặng dư dẫn đến sở hữu tư nhân xã hội và phân chia giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp xã hội là không thể hòa giải.
= & gt; Sự hình thành trạng thái lịch sử:
– Nhà nước Athen (ở dạng thuần túy nhất và cổ điển nhất): chủ yếu bắt nguồn trực tiếp từ sự phát triển giai cấp và sự đối kháng trong xã hội thị tộc
-Nhà nước Đức (hình thức được thành lập sau chiến thắng của Đức trước Đế chế La Mã): ra đời chủ yếu dưới ảnh hưởng của nền văn minh La Mã
– Nhà nước phong kiến (một hình thức được thành lập bởi sự thúc đẩy của những người bình thường bên ngoài thị tộc La Mã chiến đấu để được cống nạp cho các quý tộc của thị tộc La Mã.
– Ở phương Đông, nhà nước xuất hiện sớm, điều kiện kinh tế – xã hội trưởng thành sớm. Lý do là nhu cầu tự vệ thường trực và bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, vì vậy cư dân của Fangdong ngay từ khi còn nhỏ đã biết cách tập hợp sức mạnh trong một cộng đồng trên cả gia đình và xã hội. Khi xã hội phát triển đến một mức độ phân hóa nhất định, các thiết chế quản lý (vốn thực hiện chức năng công cộng) được giai cấp thống trị sử dụng, vừa để thực hiện chức năng thống trị của giai cấp vừa để duy trì bạo lực.
Tiết 4: Một số trường phái (khái niệm, phương pháp) tiêu biểu về nhà nước?
1. Một số khái niệm về trạng thái
2. Thông lệ quốc gia điển hình
2.1. Chức năng truy cập
2.2. Cách tiếp cận thể chế
Câu thứ năm: Những đặc trưng cơ bản của nhà nước, vấn đề xác định nhà nước?
1. Đặc điểm cơ bản của trạng thái:
-Đặc điểm 1 : Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị công, có cơ chế thực thi và quản lý đời sống xã hội.
Khác với quyền lực của các tổ chức thị tộc ban đầu để hòa nhập vào xã hội, thể hiện ý chí và lợi ích chung, quyền lực chính trị của đất nước thuộc về giai cấp thống trị, được bảo đảm bằng sự tự nguyện.
– Đặc điểm 2 : Quốc gia có lãnh thổ, dân cư được quản lý theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Bộ phận này đảm bảo sự quản lý tập trung và thống nhất của đất nước. Nhân dân có mối quan hệ với nhà nước, và nhà nước có nghĩa vụ đối với công dân của mình. Đặc điểm này khác với tổ chức thị tộc ban đầu được hình thành và tồn tại trên cơ sở huyết thống.
– Đặc điểm 3 : Các quốc gia có chủ quyền quốc gia. Đây là quyền cao nhất về độc lập đối nội và đối ngoại của một quốc gia, thể hiện sự độc lập của quốc gia đó trong việc giải quyết công việc của chính mình. Việt Nam phải biết duy trì và bảo vệ những quan điểm có nguyên tắc về đường lối chính trị và bản sắc văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế.
– Đặc điểm 4 : Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền đưa ra luật và đảm bảo việc thực hiện chúng. Luật pháp quốc gia có tính ràng buộc phổ biến và là cơ sở để phân biệt nhà nước với tổ chức thị tộc nguyên thủy.
– Tính năng 5 : Nhà nước có quyền ấn định và thu thuế theo hình thức bắt buộc. Thuế dùng để nuôi bộ máy nhà nước và thực hiện các hoạt động chung của toàn xã hội.
2. Định nghĩa trạng thái:
Nhà nước là tổ chức có quyền lực chính trị và quyền lực công của nhân dân, có cơ quan chuyên trách quản lý công việc chung của toàn xã hội trên cơ sở pháp lý và lợi ích chung. bảo vệ và đảm bảo các quyền và tự do của con người.
Phần 6: Hình thức trạng thái: Khái niệm, các yếu tố cơ bản của hình thức trạng thái, các yếu tố điều chỉnh, ảnh hưởng đến hình thức trạng thái? Ví dụ?
– Định nghĩa: Hình thức nhà nước thể hiện cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
– Gồm 3 yếu tố : hình thức chính quyền, hình thức cơ cấu nhà nước và hệ thống chính trị.
– Các yếu tố quy định ảnh hưởng đến biểu mẫu trạng thái:
Phần 7: Các hình thức chính phủ: Khái niệm, phân loại và so sánh các hình thức chính phủ ở các bang?
1. Khái niệm Chính phủ:
Hình thức chính thể nhà nước là cách các quyền lực tối cao được tổ chức, cấu trúc, thứ tự thiết lập chúng, mối quan hệ giữa chúng và mức độ tham gia vào việc thành lập các thể chế nhà nước này .
2. Phân loại của Chính phủ
Có hai loại: quân chủ và cộng hòa.
=> Không có nhà nước nào trên thế giới dưới hình thức cộng hòa quý tộc có thể kết hợp cả hai.
Phần 8: Hình thức cấu trúc nhà nước, hệ thống chính trị, quan hệ với các nước ASEAN?
1. Dạng cấu trúc trạng thái
Hình thức cơ cấu nhà nước là sự phân chia cơ cấu nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và tính chất, mối quan hệ giữa các thành phần nhà nước và giữa cơ quan chính quyền với cơ quan chính quyền địa phương.
Cấu trúc tiểu bang bao gồm: tiểu bang duy nhất và tiểu bang liên bang
a) Nhà nước nhất thể : là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống quyền lực, cơ quan hành chính thống nhất từ tw đến d và các đơn vị hành chính p>
Các phần tạo nên trạng thái:
b) Nhà nước liên bang: là một nhà nước bao gồm hai hoặc nhiều quốc gia thành viên với những đặc điểm riêng.
Đặc điểm của Khối thịnh vượng chung:
Ngoài ra, còn có một quốc gia Liên minh
Đây là liên minh tạm thời của một số quốc gia để thực hiện một số mục đích nhất định. Sau khi hoàn thành mục đích, quốc gia liên minh tự giải thể hoặc chuyển đổi thành quốc gia liên bang.
2. Hệ thống chính trị
Chế độ là tất cả những phương tiện, phương tiện mà nhà nước quản lý xã hội phù hợp với ý chí của nhà nước.
+ Các quốc gia sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật khác nhau, nhưng nhìn chung có hai phương pháp:
– Các phương pháp phản dân chủ được thực hiện đi ngược lại mong muốn của đa số xã hội.
– Phương thức dân chủ được thực hiện theo mong muốn, mục đích và nguyện vọng của đại bộ phận xã hội.
+ Có hai loại chính quyền: dân chủ (chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa) và phản dân chủ (độc tài nhà nước, độc tài chủ nô, … chính quyền phong kiến, độc tài phát xít tư sản).
→ Các câu hỏi cơ bản về biểu mẫu nhà nước hiện tại ở Việt Nam
Về chính trị, nó là một nền dân chủ cộng hòa với những đặc trưng cơ bản của nhân dân. Với cơ cấu nhà nước duy nhất, trong hệ thống chính trị, nhà nước luôn thực hiện quyền lực nhà nước một cách dân chủ.
3. Kết nối với các nước ASEAN
Phần IX: Liên đoàn các quốc gia: Các khái niệm, xu hướng?
Trong lịch sử, hình thức liên minh là hình thức liên minh điển hình giữa các quốc gia. jellinek định nghĩa liên minh các quốc gia là sự liên kết tạm thời giữa các quốc gia vì một số mục đích, chẳng hạn như bảo vệ biên giới chung, gìn giữ hòa bình chung hoặc các mục đích kinh tế. Hội Quốc Liên không có quyền lực nhà nước ban đầu. Không có quốc gia có chủ quyền mới (keine staatsqualität) được hình thành. Công dân của Liên minh Quốc gia không có quốc tịch chung. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ và đạt được mục tiêu, Liên hợp quốc tự giải tán. Cũng có những trường hợp nó phát triển thành một nhà nước liên bang (ví dụ, từ năm 1776 đến năm 1787, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang, sau đó là một nhà nước liên bang).
Do đó, một liên minh bang (staatenbund) tương tự như một bang liên bang, là một tập hợp các bang. Tuy nhiên, sự tổng hợp này không tạo thành một trạng thái chung. Các quốc gia tạo nên Liên minh Quốc gia vẫn là các quốc gia có chủ quyền, không phụ thuộc vào các điều khoản chính trị, luật pháp và kinh tế.
Trong các liên minh bang, các quyết định dựa trên nguyên tắc đồng thuận (einstimmigkeitsprinzip). Các quốc gia thành viên có quyền phủ quyết. lb là quy tắc đa số.
Ví dụ về State Union:
Liên đoàn Quốc gia Đức (1815-1866); Liên đoàn Quốc gia Serbia và Montenegro (2003-2006); Liên đoàn Quốc gia Thụy Sĩ (1815-1848, sau đó là Liên đoàn Quốc gia); Liên đoàn Pháp lý (1946-1958) và Cộng đồng Pháp (1958) -1960); Liên đoàn các quốc gia Ả Rập (1958-1961); Liên đoàn (1778-1787, sau đó là Liên minh).
Các liên minh chính trị hiện tại của các quốc gia, chẳng hạn như liên minh giữa các quốc gia Guam (Georgia, Ukraine, aserbeidschan và Moldavien. Các liên minh vì mục tiêu kinh tế quốc gia, chẳng hạn như Liên minh các quốc gia kinh tế) Benelux (bao gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) – Bỉ, Hà Lan, Luxembourg).
Câu 10: Các loại hình Nhà nước, Các loại hình luật, Quan điểm gần với các loại hình Nhà nước, các loại hình pháp luật?
1. Loại trạng thái
Kiểu nhà nước là sự phân loại (phân định) phân loại các trạng thái thành các nhóm nhất định theo các tiêu chí nhất định — sự giống nhau về các đặc điểm chung trong quá trình phát triển.
Có bốn trạng thái:
1. Các loại quốc gia sở hữu nô lệ: sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và chế độ chiếm hữu nô lệ (các đặc điểm quan trọng)
2. Nước phong kiến: Phần lớn địa chủ phong kiến thực hiện nguyên tắc quyền lực tương ứng với ruộng đất.
3. Các kiểu nhà nước tư sản: Hình thức pháp luật được quy định theo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Thực chất: Nhà nước tư sản vẫn là công cụ trong tay của giai cấp tư sản cho sự độc tài của giai cấp tư sản đối với toàn xã hội.
4. Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa: là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với giai cấp bóc lột. Sứ mệnh của một đất nước xã hội chủ nghĩa, mọi thứ là vì sự bình đẳng, công bằng và phát triển bền vững của xã hội.
= & gt; Việc thay thế một trạng thái như vậy bằng một trạng thái mới và tiến bộ hơn là quy luật tất yếu. Luật thay thế kiểu nhà nước dựa trên quy luật phát triển và thay thế hình thái kinh tế – xã hội.
2. Loại pháp lý
Tương ứng với 4 trạng thái, cũng có 4 loại luật, đặc điểm như sau:
– Các luật về chế độ nô lệ được coi là vô nhân đạo, coi rằng một bộ phận lớn dân cư – nô lệ, chỉ là một công cụ để nói cho chủ nô, cho phép chủ nô hoàn toàn có quyền mua hoặc bán, sử dụng hoặc giết, làm quà tặng hoặc đồ trang trí, thế chấp hoặc thừa kế, và những nô lệ bỏ trốn hoặc âm mưu chống lại họ sẽ bị trừng phạt tàn nhẫn. lại.
-Hệ thống pháp luật phong kiến phân chia xã hội thành các giai cấp và tầng lớp khác nhau, được hưởng các quyền và nghĩa vụ khác nhau tùy theo địa vị xã hội khác nhau; khẳng định và bảo vệ các đặc quyền, đặc lợi của giai cấp quý tộc phong kiến, duy trì nông nô và Tình trạng bán nô lệ của những tá điền, những nghĩa vụ nặng nề và hình phạt tàn nhẫn đối với họ.
– Luật tư sản giải phóng con người khỏi mọi lệ thuộc phong kiến, tuyên bố bình đẳng trước pháp luật, công nhận tự do kinh tế và chính trị, tự do văn hóa và xã hội, đồng thời khẳng định quyền sở hữu tư nhân là bất khả xâm phạm, củng cố chế độ tư bản của sự sản xuất. Trong điều kiện tư sản, người lao động phần lớn chỉ có quyền bình đẳng và hợp pháp chính thức, vì họ không có đủ điều kiện vật chất cần thiết để làm việc. Đây là tính chất hình thức và giả tạo của pháp luật tư sản. Pháp luật tư sản là hệ thống phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu quản lý của xã hội tư sản.
–Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, bảo vệ lợi ích của đông đảo nhân dân lao động, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tầng lớp xã hội và các tầng lớp xã hội. Pháp luật xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhà nước và phương tiện lãnh đạo xã hội của các đảng chính trị của giai cấp công nhân, là công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, là chỗ dựa cho nhân dân thực hiện quyền lực, là công cụ đắc lực để duy trì và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Phương pháp tiếp cận kiểu nhà nước, kiểu pháp lý
Về cơ bản, có hai cách tiếp cận đối với tiểu bang và luật:
– Các phương pháp tiếp cận dựa trên các hình thức kinh tế và xã hội;
– Tiêu chí dựa trên nền tảng công dân.
Tiết 11: Bản chất, hình thức và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
1. Bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Theo Điều 2 của Hiến pháp năm 2013, bản chất của nước ta là:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa do pháp luật, của nhân dân, vì nhân dân, vì nhân dân cai trị.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng là khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
= & gt; Đất nước chúng tôi mang tính dân tộc cao và hướng về con người. Bản chất của nhà nước được xác định bởi nền tảng kinh tế và xã hội của nó
+ Cơ sở kinh tế: Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, sở hữu công cộng về sản phẩm lao động xã hội và sự hợp tác, giúp đỡ thân thiện của người lao động.
p>
+ Cơ sở xã hội: Toàn thể nhân dân lao động dựa trên khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
2. Hình thức quốc gia của Việt Nam
– Hình thức chính phủ: Cộng hòa dân chủ – cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Nước Cộng hòa dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều nét độc đáo khác với nước Cộng hòa dân chủ tư sản.
– Hình thức cơ cấu nhà nước: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất, độc lập, có chủ quyền, hệ thống pháp luật thống nhất, có hiệu lực trên phạm vi cả nước. Điều 1 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.
& gt; & gt; & gt; Xem thêm bài viết: Hình thức Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3. Những nét cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
+ Trước hết, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa, pháp quyền.
+ Thứ hai, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước do nhân dân làm chủ, vì nhân dân, vì nhân dân.
+ Thứ ba, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước và công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của hai bên.
+ Thứ tư, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước dân chủ, nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền tự chủ về mọi mặt của nhân dân.
+ Thứ năm, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước thống nhất của nhân dân các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
+ Thứ sáu, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước độc đảng là Đảng Cộng sản.
+ Thứ bảy, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước yêu chuộng hòa bình, muốn kết bạn với các nước trên thế giới
Câu 12: Chức năng nhà nước: khái niệm, phân loại, các yếu tố điều tiết, ảnh hưởng đến định nghĩa và thực hiện chức năng nhà nước, ví dụ
1. Khái niệm chức năng trạng thái:
Chức năng nhà nước được hiểu là những hoạt động cơ bản nhất, thường xuyên, liên tục và ổn định nhất của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của nhà nước.
2. Các loại chức năng trạng thái: 2
– Chức năng đối nội: Các khía cạnh chính của hoạt động của nhà nước trong phạm vi quốc gia.
Ví dụ:
+ Đảm bảo trật tự xã hội
+ Đàn áp những người bất đồng chính kiến
+ Bảo vệ các thể chế chính trị và xã hội
– chức năng đối với quốc tế: phương hướng hoạt động cơ bản của một quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Ví dụ:
+ Bảo vệ đất nước
+ Ngăn chặn sự xâm nhập của nước ngoài
+ Xây dựng mối quan hệ với các quốc gia khác.
= & gt; Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và ảnh hưởng lẫn nhau, chức năng đối nội đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với chức năng đối ngoại. Sự phát triển của chức năng đối ngoại phải bắt nguồn từ chức năng đối nội và phục vụ chức năng đối nội.
Mục 13: Hình thức và phương thức thực hiện chức năng nhà nước liên quan đến chức năng nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng nhà nước:
Để thực hiện các chức năng của nhà nước, nhà nước phải thành lập cơ quan nhà nước bao gồm nhiều cơ quan nhà nước khác nhau. Mọi thể chế đều phải thực hiện nhiệm vụ của mình, đồng thời, tất cả các thể chế này đều phải phục vụ đất nước.
a) Biểu mẫu thực hiện chức năng trạng thái:
Có 3 dạng cơ bản:
= & gt; Ba hình thức này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau và đều nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị (trong xã hội hiện đại là lợi ích của toàn thể nhân dân lao động) .
b) Phương thức thực thi chức năng trạng thái:
Có hai phương pháp thực hiện chức năng nhà nước: giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Việc nhà nước thông qua hình thức nào phụ thuộc vào bản chất của nhà nước, cơ sở kinh tế – xã hội, mâu thuẫn giai cấp, quan hệ quyền lực …
2. Liên quan đến Chức năng Nhà nước CHXHCN Việt Nam
– Chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những thay đổi lớn về nội dung, hình thức và tổ chức thực hiện, đưa đất nước thích ứng với tình hình mới và phát triển năng động, sáng tạo. Ví dụ, nếu trước đây chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước là tập trung quan liêu, bao cấp thì nay với chức năng này, nhà nước quản lý có hiệu quả các thành phần của nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
– Chức năng ngoại giao: Quốc gia cũng thực hiện chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá với các nước trên thế giới.
Trình bày một số nhiệm vụ cơ bản trong chức năng xã hội của quốc gia chúng ta
Mục 14: Chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: khái niệm, phân loại, so sánh với chức năng của Nhà nước trong thời kỳ hành chính, trong đó nhấn mạnh đến các cấp trước đây.
1. Chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay (liên quan đến câu 13)
2. So với chức năng nhà nước trong thời đại quan liêu, bao cấp
a) Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp.
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu thông qua các mệnh lệnh hành pháp, dựa trên một hệ thống quy định chi tiêu chi tiết từ đầu đến cuối. Doanh nghiệp hoạt động theo quyết định và nghị định chỉ định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mọi phương hướng sản xuất, nguồn nguyên liệu, kinh phí, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương … đều do cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước ban hành mục tiêu kế hoạch, cấp kinh phí và vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan quản lý can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không chịu trách nhiệm chính trong việc ra quyết định của doanh nghiệp. Những tổn thất về vật chất do ra quyết định không đúng phải do ngân sách quốc gia gánh chịu.
Hệ quả của hai điểm trên là cơ quan quản lý nhà nước thay thế chức năng sản xuất, điều hành và quản lý của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ bị gông cùm vì không có quyền tự chủ mà còn ỷ lại cấp trên vì không chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị bỏ qua, chỉ quan hệ hình thức, quan hệ vật chất là chính. Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống “phân phối – bàn giao”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Thứ tư, cơ cấu bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, thiếu chủ động, dẫn đến đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách chuyên quyền, quan liêu.
Trợ cấp chủ yếu dưới các hình thức sau:
+ Bao cấp: Giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hoá do nhà nước định giá thấp hơn giá trị thị trường nhiều lần so với giá trị thực tế của chúng. Đối với một mức giá thấp như vậy, một phần của đó là một món quà. Vì vậy, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
+ Bao cấp niêm phong (lương hiện vật): Nhà nước quy định cách cấp phát vật phẩm tiêu hao cho cán bộ, công nhân viên, người lao động theo định mức dưới hình thức con dấu. Chế độ thuế tem phiếu, khác xa với giá thị trường, đã biến hệ thống tiền lương thành tiền lương vật chất, loại bỏ động cơ khuyến khích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo công việc.
+ Trợ cấp được thực hiện thông qua hệ thống phân bổ quỹ ngân sách, nhưng không có cơ chế hạn chế trách nhiệm vật chất của các đơn vị được bao cấp. Điều này vừa làm tăng gánh nặng ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng kinh phí không hiệu quả, làm nảy sinh cơ chế “xin cho”.
Trong giai đoạn nền kinh tế còn bị chi phối bởi tăng trưởng theo chiều rộng, cơ chế này có tác dụng nhất định, nó có thể tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chính trong những thời kỳ và điều kiện khác nhau. Đặc biệt, trong quá trình công nghiệp hóa, công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển. Nhưng nó làm xói mòn cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ công nghệ, làm suy giảm động lực kinh tế của người lao động, không khơi dậy được sức sống và sức sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu trên cơ sở sử dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cơ chế quản lý này càng bộc lộ những bất cập của nó. , rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận cơ chế sản xuất và thị trường hàng hóa nên chúng ta cho rằng kế hoạch hóa là đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và mọi nguồn lực đều được phân bổ theo kế hoạch; thị trường được coi là công cụ phụ trợ để bổ sung quy hoạch. Không thừa nhận rằng thực sự có nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ mà kinh tế nhà nước và tập thể là trụ cột, cần nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân cá thể; hình thành nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
b) Các cơ chế quản lý kinh tế cần được cập nhật.
Trước sức ép của hoàn cảnh khách quan, để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, nền kinh tế thị trường chúng ta đã có một số cải tiến nhưng vẫn chưa đủ toàn diện và chưa triệt để. Đây là hợp đồng bao tiêu nông sản theo Chỉ thị 100 – ct / tw lần thứ 4 của Ban Bí thư Trung ương; bù lương dài hạn; Nghị quyết số 5 (năm 1985) về Giá-Tiền lương; Thực hiện Nghị định số 25 và Nghị định 26 – the Chính phủ … Tuy nhiên, đây là những cơ sở thực tế cho quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế của đảng.
Khi đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI đã chỉ rõ: “Việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải được thực hiện đồng thời với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý tập trung. Cơ chế quan liêu, bao cấp không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu xã hội Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sự phát triển kinh tế và sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả, gây lúng túng trong phân phối và phân phối, gây ra nhiều hiện tượng không mong muốn trong xã hội ”. Vì vậy, việc cập nhật cơ chế quản lý kinh tế trở thành một nhu cầu cấp thiết.
Mục 15: Chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, chức năng kinh tế của đất nước có những điểm khác nhau nhất định, nhưng nó luôn là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chức năng kinh tế của nhà nước Việt Nam chủ yếu bao gồm các nội dung sau: Tổ chức nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội.
– Phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lực lượng lao động phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
——Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần do kinh tế quốc doanh làm chủ đạo; phát triển đa dạng các hình thức hợp tác với hợp tác xã làm nòng cốt của kinh tế tập thể; tạo môi trường kinh doanh để phát triển kinh tế cá thể, nhỏ lẻ. kinh tế nông dân và kinh tế tư bản tư nhân; Sự phát triển đa dạng của kinh tế tư bản nhà nước; tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển.
– Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các thị trường xã hội chủ nghĩa, đồng thời hình thành cơ chế quản lý của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
– Tiếp tục đổi mới công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quốc gia.
Mục 16: Chức năng xã hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Chức năng xã hội của nhà nước: Tổ chức, quản lý văn hóa, khoa học, công nghệ và giải quyết các vấn đề chính sách xã hội. Bao gồm các mục tiêu cơ bản sau:
– Lấy giáo dục và đào tạo, coi khoa học và công nghệ là quốc sách cao nhất, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước coi trọng phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, ươm mầm nhân tài, ươm mầm tài năng. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học và công nghệ quốc gia, xây dựng cơ sở khoa học và công nghệ tiên tiến, đồng thời phát triển các ngành khoa học.
– Tạo cơ hội việc làm và quan tâm cải thiện điều kiện làm việc của nhân viên. Cải cách chế độ đãi ngộ công chức, bảo đảm doanh nghiệp trả lương, thưởng cho doanh nghiệp tư nhân trên cơ sở năng suất lao động của doanh nghiệp và hiệu quả của doanh nghiệp. –
Thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo; thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cho mọi thành viên trong cộng đồng; thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công, chính sách trợ giúp xã hội đối với người gặp rủi ro, không may mắn; thực hiện đồng thời công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. và các chính sách thân thiện với trẻ em. – Riêng tư
Hướng từ đất nước là ý tưởng xây dựng một nền văn hóa mới, một con người mới và một lối sống mới. Nhà nước bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam; kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa bản chất con người; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
Phần 17: Bộ máy Nhà nước
1. Khái niệm:
Thiết chế nhà nước là hệ thống thiết chế nhà nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức theo những nguyên tắc chung, thống nhất để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
2. Phân loại các cơ quan nhà nước:
-Dựa trên hình thức thực thi quyền lực:
+ Cơ quan Quốc gia
+ Cơ quan quản lý nhà nước
+ Tư pháp
– Đặt hàng dựa trên bản dựng:
+ Cơ quan chính phủ được bầu (được bầu)
+ Không phải là cơ quan do nhân dân bầu ra
dựa trên xếp hạng có thẩm quyền
+ Quyền hạn chung
+ Cơ quan chuyên môn
– Dựa trên cấp độ quyền:
+ Các cơ quan chính phủ trung ương
+ Cơ quan chính quyền địa phương
* Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước do nô lệ làm chủ
– Đặc điểm: Sự khác biệt giữa Đông và Tây, cụ thể:
+ Ở phương Đông: Hình thức quân chủ tập trung phổ biến. Bộ máy nhà nước còn sơ khai và đơn giản, có tính văn minh cao, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo.
+ Ở phương Tây: Các hình thức nhà nước đa dạng hơn phương Đông, hoạt động của nhà nước ngày càng chuyên biệt hơn. Cơ quan tư pháp độc lập với hành pháp.
Bộ máy nhà nước phong kiến
– Đặc điểm: Tính cách quân tử nặng nề gắn liền với chế độ đẳng cấp phong kiến. Các cơ quan thực thi pháp luật (chẳng hạn như quân đội, nhà tù, v.v.) là chủ thể.
– Cấu trúc trạng thái bao gồm:
+ Quân chủ: Là địa vị cao nhất trong bộ máy nhà nước với quyền lực vô hạn.
+ Viện trợ Trung ương. Cơ quan địa phương và hệ thống chính thức.
Bộ máy Nhà nước Tư sản:
– Đặc điểm: Được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền, thành lập từng phần. Ba nguyên tắc lập pháp, hành chính và tự quản là hạn chế lẫn nhau và hạn chế lẫn nhau. Chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân.
– Cấu trúc bao gồm:
+ Nguyên thủ quốc gia (Phủ tổng thống): Được thành lập bằng bầu cử nghị viện (cộng hoà đại diện), bầu cử đại cử tri (cộng hoà tổng thống), bầu cử đại cử tri (cộng hoà).
+ Nghị viện: Là cơ quan đại diện của quyền lực cao nhất và có thể thực hiện hiến pháp và các đạo luật. Có thể có 1 hoặc 2 viện.
+ Chính phủ: Có thể do nghị viện bầu ra và chịu trách nhiệm giải trình (ở các nước cộng hòa nghị viện và hỗn hợp), hoặc do tổng thống thành lập và chịu trách nhiệm (ở các nước cộng hòa đại nghị và hỗn hợp). Cộng hòa Tổng thống)
+ Hệ thống Tòa án
Máy trạng thái xhcn:
– Đặc điểm: Bộ máy nhà nước được tổ chức theo kinh tế chính trị và bản chất của nhà nước.
– Cấu trúc bao gồm:
+ Cơ quan nhà nước
+ Chủ tịch
+ Cơ quan quản lý nhà nước
+ Tư pháp
+ Cơ quan quản lý
Mục 18 + 19 + 20 + 21: Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Khái niệm :
Cơ quan nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những trình tự, thủ tục nhất định do hiến pháp và pháp luật quy định. Họ có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau, có chức năng, quyền hạn tương ứng do hiến pháp và pháp luật quy định để tham gia thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của nhà nước.
2. Phân loại các cơ quan nhà nước:
– Cơ quan nhà nước:
+ Quốc hội: Là cơ quan đại biểu, quyền lực cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.
+ UBND (hĐnd): Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do địa phương trực tiếp bầu ra.
– Chủ tịch nước: là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho đất nước về đối nội và đối ngoại, là đại biểu Quốc hội.
– Cơ quan quản lý quốc gia:
+ Chính phủ: Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
+ Ủy ban nhân dân: Do Quốc hội bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân các cơ quan nhà nước cùng cấp trở lên.
– Cơ quan tư pháp: bao gồm toà án nhân dân, toà án quân sự và các toà án khác do luật định.
– Cơ quan kiểm sát: bao gồm cả viện kiểm sát nhân dân và viện kiểm sát quân đội.
3. Các nguyên tắc cơ bản của Tổ chức và Hoạt động của Bộ máy Nhà nước
a) Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tổ chức bộ máy nhà nước và tham gia quản lý nhà nước:
Sức mạnh của nhân dân đến từ lý thuyết khế ước xã hội, chủ nghĩa Mác. Giai cấp tư sản đưa lý luận về quyền lực nhân dân vào thực tiễn, được các nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận, khẳng định và tiếp tục phát triển
Nội dung:
-Người dân có quyền thành lập bmnn thông qua bầu cử và các hình thức khác
Hiện trạng: Cuộc bầu cử vẫn còn mang tính hình thức, làm thế nào để bỏ phiếu có thể đảm bảo rằng sự lựa chọn của người dân có thể phản ánh đúng ý chí và hiệu quả của chính họ
-Nhân dân có quyền giám sát các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật
-Người dân có quyền tự ứng cử tham gia bmnn, trở thành công chức nhà nước, vận hành bộ máy nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước và đại diện cho ý chí, nguyện vọng của người khác.
– / p>
– Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến và quyết định về các vấn đề quốc gia
Tình trạng: Hiến pháp có quy định, nhưng không có luật và không thể thực hiện.
-Mọi người có quyền sa thải những người đại diện mà họ không còn tin tưởng nữa
Thực tế: Quyền này hiếm khi được thực thi và không được thực thi rộng rãi.
= & gt; Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nguyên tắc quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thể hiện cội nguồn của quyền lực, phát huy nhân dân làm chủ đất nước, thể hiện rõ nét nhất sự tiến bộ và văn minh của xã hội, cũng như các nguyên tắc khác (vì thừa nhận quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sau đó là Đảng, Nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền, v.v.)
b) . Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo đất nước thực hiện nhiệm vụ chiến lược lâu dài là xây dựng đất nước và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân giàu, xã hội”. Thứ hai, vai trò lãnh đạo đất nước của đảng trước hết thể hiện ở bản lĩnh chính trị của đảng, ở bản lĩnh chính trị của đảng, của đảng về chính trị và thông qua tuyên truyền thuyết phục, làm cho xã hội có ý thức và tự giác chấp nhận, khả năng không ỷ lại. , lệnh.
Tất nhiên, để thích ứng với tình hình mới của công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tự sửa, tự đổi mới về mọi mặt, trong đó có vấn đề về tổ chức, cơ cấu, đội ngũ, v.v. .
c) Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Theo Hiến pháp năm 1992 (cũng như các bản Hiến pháp 1980 và 1959), bộ máy nhà nước ta bao gồm ba thiết chế thực hiện ba chức năng riêng biệt: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án thực hiện quyền tư pháp. . Các thiết chế này hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, được quy định trong hiến pháp.
Nguyên tắc dân chủ chuyên chế thực chất là sự kết hợp hài hòa giữa phương hướng tập trung hóa ở cấp trên với phát huy dân chủ và tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới. Nguyên tắc này đòi hỏi một hệ thống thông tin, báo cáo và trách nhiệm giải trình rõ ràng giữa cấp trên và cấp dưới; kiên quyết phản đối cơ chế tập trung quan liêu và chế độ vô chính phủ tự do.
d) Nguyên tắc của luật:
Các điều kiện để nhà nước tổ chức và hoạt động nhằm bảo đảm pháp quyền.
Đầu tiên, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời và có hệ thống. Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất với nhau, là sự thống nhất giữa chủ thể và phương tiện. Để đất nước hoạt động đúng chức năng và bảo đảm pháp quyền, các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật (văn bản dưới luật) phải kịp thời và đồng bộ.
Thứ hai, các yêu cầu của nhà nước pháp quyền đòi hỏi các thể chế nhà nước phải được thành lập và hoạt động trong khuôn khổ pháp lý xác định chúng về địa vị pháp lý, quy mô và thẩm quyền.
Thứ ba, tôn trọng hiến pháp và luật pháp của các tổ chức nhà nước. Đây là sự tôn trọng pháp quyền, đồng thời phản ánh bản chất dân chủ của đất nước.
Mục 20: Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, phân phối, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau của các thiết chế nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Người Pháp.
– Quyền lực nhà nước là nguyên tắc thống nhất, phân phối, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau của các thiết chế nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. là nguyên tắc cốt lõi của HP Việt Nam
– Quyền lực nhà nước có nghĩa là thống nhất và tập trung ở nghị viện
– Tách các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp
– Trong tổ chức và hoạt động của các thể chế, việc phân phối, phối hợp và kiểm soát luôn được đặt trên nguyên tắc quyền lực thống nhất được quy định trong Hiến pháp năm 2013, do đó ít nhiều khác biệt với các ràng buộc và kiểm tra, cân đối. Nguyên tắc tam quyền phân lập trong học thuyết “tam quyền phân lập” của các học giả tư sản.
– Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện đồng thời với nguyên tắc phối hợp của các thiết chế nhà nước (hành pháp, lập pháp, tư pháp) trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn nguyên tắc phân phối quyền phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước.
Mục 21: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
– Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo, tập trung lãnh đạo, thống nhất của cấp trên và mở rộng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. dân tộc.
– Nguyên tắc này được áp dụng trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước xuất phát từ nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”. Lê-nin nhấn mạnh: “Nguyên tắc tập trung dân chủ theo nghĩa chung nhất là hiểu nguyên tắc tập trung là dân chủ đúng nghĩa”.
– Ở Việt Nam, nguyên tắc này được thể hiện rõ nhất tại Điều 27 Hiến pháp 2013 về chế độ bầu cử: “Công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, công dân từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử. . Nghị viện, Hội đồng. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định ”. Nguyên tắc này đảm bảo tính công khai, dân chủ và sự tham gia rộng rãi của mọi thành phần nhân dân.
– Trong Hiến pháp của Đảng Cộng sản cũng đã ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ”
Phần 22: Tổng quan về lịch sử trí tuệ, Học thuyết pháp quyền
1. Định nghĩa :
Quốc gia theo pháp quyền là một hình thức tổ chức quốc gia có sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cùng cơ chế kiểm soát. Trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật, khách quan, nhân đạo, công bằng, mọi việc đều vì lợi ích hợp pháp của nhân dân.
2. Tổng quan lịch sử ………… ..
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích lũy và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
1. Tư tưởng cổ xưa về pháp quyền
Tuy cách thể hiện và mức độ thể hiện khác nhau, nhưng có thể nói, tư tưởng chính trị và pháp luật thời Trung cổ ở cả phương Đông và phương Tây đều chứa đựng những yếu tố của nhà nước pháp quyền. Sự hình thành khái niệm nhà nước pháp quyền có liên quan đến việc khẳng định chủ quyền của nhân dân, phát triển dân chủ, chống lại chế độ chuyên quyền, vô chính phủ, vô pháp luật của những người cầm quyền. luật pháp và xã hội.
Ví dụ:
+ socrat (469 – 399 TCN) cho rằng tuân theo và tôn trọng luật pháp là tôn trọng lý trí, công lý và trí tuệ của quần chúng, nếu không quyền lực sẽ đi chệch hướng.
Xem Thêm : HSE là gì? Tất tần tật về HSE tại doanh nghiệp
+ law aton (427 – 347 bc) Khái niệm rằng một nhà nước chỉ có thể tồn tại nếu những người cai trị của nó tuyệt đối tuân theo luật pháp. Ông nói: “Chúng ta đang nhìn thấy sự kết thúc của một quốc gia mà luật pháp không có quyền lực và nằm dưới quyền của một ai đó.
+ Aristotle (384-322 TCN) nhấn mạnh rằng luật pháp phải là trên hết. Từ đó, ông coi nhà nước thực sự, thuần túy hay nguyên thủy, nơi những người cai trị dựa trên luật pháp và vì lợi ích công cộng, và những người cai trị chỉ dựa trên ý chí cá nhân chứ không dựa trên cơ sở của luật pháp mà chỉ vì lợi ích của họ. nhà nước cầm quyền là một nhà nước tham nhũng hoặc lệch lạc.
+ Ở Trung Quốc cổ đại và trung đại, mặc dù có nhiều hạn chế lịch sử trong các lý thuyết chính trị và pháp luật điển hình như đức trị và pháp quyền, chúng cũng chứa đựng những yếu tố của một quốc gia được quản lý bởi nhà nước pháp quyền, được phản ánh trong tác phẩm của các nhà tư tưởng lớn như Khổng Tử, Mạnh Tử, đồ hình Hán Tử, Tấn Tử …
+ Han Pitu (Tư tưởng chính trị pháp quyền) chủ trương pháp quyền là phương thức cai trị đúng đắn duy nhất, pháp luật phải công bằng, phải có sự thay đổi và phát triển. Thực tế khách quan, mọi người, kể cả vua chúa, quan lại và thần dân đều phải tôn trọng và tuân theo pháp luật.
2. Lý thuyết pháp quyền tư sản
Tư tưởng về đất nước pháp quyền thời cổ đại đã được các nhà tư tưởng tư sản tiếp thu và phát triển trong điều kiện mới, thể hiện một thế giới quan pháp luật mới. Nội dung chủ yếu của lý luận nhà nước pháp quyền tư sản là phản đối chế độ phong kiến chuyên quyền, vô pháp, dã man, ra sức thiết lập hệ thống nhà nước dựa trên pháp quyền và tuân theo pháp luật. Luật bảo đảm tự do, bình đẳng và nhân văn.
+ jon locke – nhà tư tưởng người Anh tk xvii, luật pháp phải phù hợp với luật tự nhiên, ông đã nêu ra nguyên tắc: làm những gì luật chỉ cho phép đối với những người có quyền, nhưng đối với công dân: làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên minh, trong đó quyền lập pháp phải là tối thượng.
+ Montesquieu (nhà tư tưởng lớn người Pháp) đã thành lập học thuyết tam quyền phân lập trong nước với cuốn sách nổi tiếng “Tinh thần pháp luật”. Theo ông, nhà nước có ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chia để trị và cân bằng ba quyền lực với nhau là điều kiện chính để bảo đảm quyền tự do của nhà nước và xã hội, chính trị.
+ Rousseau (Pháp) đã góp phần quan trọng trong việc nâng các tư tưởng về “nguồn gốc của quyền lực nhà nước” và “chủ quyền phổ biến” lên một tầm cao mới.
+ Cho đến tkxviii, Kant đã trình bày một luận điểm triết học về nhà nước pháp quyền, theo đó nhà nước là tập hợp những người tuân theo pháp luật, và pháp luật của nhà nước pháp quyền thì bản thân nhà nước phải tuân theo.
= & gt; Tóm lại, khái niệm nhà nước mang bản chất nhà nước pháp quyền đã được hình thành và tồn tại từ xa xưa trong lịch sử, thể hiện lòng khao khát của nhân dân đối với nhà nước, hệ thống xã hội lý tưởng và khả năng đảm một cuộc sống tự do. , đặc biệt là quyền tự do chính trị của mọi người.
Tiết 23: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và kế thừa các giá trị, vận dụng vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
– Trong di sản tư tưởng cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một bộ phận cơ bản là hệ tư tưởng về nhà nước và pháp luật. Tư duy của ông chứa đựng nhiều yếu tố về nhà nước pháp quyền, đặc biệt là tư tưởng về quyền con người, một nhà nước mạnh và hiệu quả, mối quan hệ giữa luật pháp và đạo đức: tự do, dân chủ và pháp quyền. Luật pháp: Quyền con người và quyền quốc gia …
-Tư tưởng quản lý xã hội theo pháp luật của nhân dân được hình thành từ rất sớm, trong “Bảy yêu cầu / Pepsi” về việc ban hành hiến pháp do nhân dân Annan đề xuất với Hội nghị Versailles năm 1919. pháp quyền ”.
– Ý tưởng của ông được hiện thực hóa trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam mới.
-Trong quá trình xây dựng đất nước pháp quyền của nhân dân Việt Nam, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được kế thừa và áp dụng. Trong văn kiện của đảng: “Nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện chủ quyền của nhân dân là nước, nước do nhân dân cai trị, nước do nhân dân làm chủ, nước do nhân dân cai trị. nhà nước thống nhất nhưng trong việc thực hiện quyền lập pháp và hành pháp, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện công tác quản lý tư pháp và nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật. ”
Tiết 24: Các khái niệm và đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản của nhà nước pháp quyền. Nội dung liên quan đến việc thể hiện các đặc trưng (nguyên tắc) cơ bản của điều hành đất nước bằng pháp luật trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013
1. Khái niệm về quốc gia pháp quyền
Quốc gia theo pháp quyền là một hình thức tổ chức quốc gia có sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cùng cơ chế kiểm soát. Trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật, khách quan, nhân đạo, công bằng, mọi việc đều vì lợi ích hợp pháp của nhân dân.
2. Các đặc điểm cơ bản của một quốc gia được cai trị bởi luật pháp
– Quốc gia pháp quyền là quốc gia có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất và chặt chẽ, dựa trên nền tảng đạo đức xã hội nhân văn và đạo đức tiến bộ, thực hiện quản lý xã hội theo quy định của pháp luật.
– Ở đất nước pháp quyền, pháp luật chiếm vị trí tối cao trong đời sống quốc gia và đời sống xã hội; pháp luật phải khách quan, nhân đạo, công bằng, phù hợp với đạo đức xã hội và vì lợi ích hợp pháp của Mọi người.
– Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân là ngang nhau và cùng chịu trách nhiệm. Tuân theo pháp luật là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức kể cả nhà nước và nhà nước có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cá nhân do những quyết định và hành động sai trái gây ra. TÔI.
– Quốc gia pháp quyền là quốc gia mà quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân được hệ thống pháp luật của quốc gia đó tôn trọng và thực thi. Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
-Một quốc gia theo nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở phân chia quyền lực quốc gia, sự phân định quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp rõ ràng, khoa học, quyền lực được kiểm soát, kiểm soát và giám sát bằng quyền lực. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và vận hành theo các cơ chế bảo đảm kiểm soát quyền lực nhà nước.
– Nhà nước pháp quyền tồn tại trong một xã hội dân sự lành mạnh, bảo đảm quyền tự do của cá nhân và tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
p>
– Nhà nước pháp quyền là quốc gia sống hòa nhập với cộng đồng quốc tế, thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế mà quốc gia đó đã ký kết hoặc công nhận.
3. Các nguyên tắc này được nêu trong Hiến pháp năm 2013 như sau:
Điều 2
1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa do pháp luật cai trị.
2. Một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng của nó là liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, các thiết chế nhà nước được phân bổ, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Điều 3
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu làm giàu cho nhân dân, củng cố đất nước, dân chủ, công bằng, văn minh, để mọi người đều được sống cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Điều 8
Nhà nước tổ chức và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội theo hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều 12
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển; trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và bình đẳng. và các bên cùng có lợi, cùng có lợi, các quan hệ đa phương, đa nguyên đã được hiện thực hóa. Hãy là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, nghĩ đến đất nước, dân tộc, vì hòa bình thế giới và độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. .
Điều 14
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về các mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật khi cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, v.v.
Phần 25: Các đặc điểm cơ bản của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
– Hệ thống pháp luật phải được hoàn thiện để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của quản lý xã hội theo quy định của pháp luật trên cơ sở đạo đức xã hội và đạo đức tiến bộ của con người.
– Phải thiết lập và có các cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật trong hệ thống các công cụ pháp luật.
– Pháp luật chiếm vị trí tối cao trong đời sống dân tộc và đời sống xã hội.
– Pháp luật phải luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Phần 26: Trách nhiệm và vai trò của Nhà nước đối với Quyền con người và Quyền công dân. Liên quan đến Hiến pháp 2013
– Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm cho mọi người có quyền và tự do bình đẳng trước pháp luật, có đầy đủ cơ hội hợp pháp để phát triển toàn diện cá nhân, để mỗi người phát huy hết khả năng của mình. Quyền tự do và quyền bình đẳng của công dân được ghi nhận trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Công bằng, bình đẳng của công dân trong một quốc gia có pháp quyền không chỉ được bảo đảm về mặt pháp luật mà còn trên thực tế, Nhà nước bảo đảm cho công dân có đủ điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để thực hiện nghĩa vụ và thực hiện các quyền của mình trên thực tế.
– Nhà nước cũng có nghĩa vụ bảo vệ quyền con người và quyền công dân
Nghĩa vụ tôn trọng : Nghĩa vụ này yêu cầu nhà nước không được can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp một cách tùy tiện vào các quyền con người và dân sự mà các chủ thể quyền được hưởng. Đây được coi là một nghĩa vụ thụ động vì nó không đòi hỏi Nhà nước phải chủ động đưa ra các sáng kiến, biện pháp hoặc chương trình để bảo vệ hoặc hỗ trợ các chủ thể quyền trong việc thụ hưởng các quyền của họ.
Nghĩa vụ bảo vệ : Nghĩa vụ này yêu cầu nhà nước ngăn chặn các hành vi vi phạm nhân quyền và dân quyền của mọi đối tượng, kể cả các cơ quan nhà nước và nhân viên. Đây được coi là một nghĩa vụ tích cực, vì để đạt được điều này, nhà nước phải chủ động từng bước và thiết lập cơ chế để ngăn chặn và giải quyết vi phạm …
Thực hiện nghĩa vụ : Nghĩa vụ này yêu cầu nhà nước thực hiện các bước để hỗ trợ các chủ thể quyền trong việc thụ hưởng các quyền con người và dân sự. Đây được coi là một nghĩa vụ chủ động vì nó đòi hỏi các bang phải xây dựng các kế hoạch và chương trình cụ thể để đảm bảo rằng trẻ em được hưởng các quyền của mình một cách đầy đủ nhất có thể.
* Hiến pháp là công cụ pháp lý cơ bản bảo vệ các quyền con người và công dân của các quốc gia. Theo hiến pháp sửa đổi năm 2013, trách nhiệm và vai trò của nhà nước đối với quyền con người và quyền công dân như sau:
Điều 14
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về các mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật khi cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, v.v.
* Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một số quyền mới , bao gồm: quyền sống; quyền văn hóa; quyền xác định chủng tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; công dân không bị trục xuất, không bàn giao cho Quyền của các nước khác … là chặt chẽ, chính xác, khả thi và phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền con người mà nước mình tham gia.
* Cũng là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, hiến pháp quy định trực tiếp trách nhiệm của chính phủ, tand, vksnd trong việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân – một nghĩa vụ hiến định.
+ Điều 96 (6) (Chính phủ): bảo vệ quyền của nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an ninh xã hội;
+ Điều 102 Khoản 3 (Tòa án nhân dân): Tòa án nhân dân có quyền hợp pháp bảo vệ công lý quốc gia, quyền con người, quyền công dân, hệ thống xã hội chủ nghĩa và lợi ích của tổ chức, cá nhân.
+ Điều 107 Khoản 3 (Viện kiểm sát): Viện kiểm sát nhân dân có nghĩa vụ thượng tôn pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia và quyền, lợi ích hợp pháp. Các tổ chức và cá nhân giúp đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt và thống nhất các quy định của pháp luật.
Phần 27: Hệ thống chính trị ở Việt Nam: Khái niệm, vị trí và vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam
1. Khái niệm:
– Hệ thống chính trị là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các thể chế chính trị có địa vị, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình tham gia thực hiện quyền lực chính trị. . hiệp hội.
– Hệ thống chính trị của Việt Nam ra đời sau thế kỷ thứ 8, với sự hình thành nền dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Dưới góc độ điều kiện quốc gia, hệ thống chính trị của Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Nhất nguyên chính trị, chỉ có một Đảng cộng sản lãnh đạo, với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tính công dân sâu sắc: Mọi thể chế đều gắn với một tầng lớp nhân dân nhất định, lấy nhân dân làm mục đích, trở thành nguồn sức mạnh của nhân dân.
+ Cơ cấu tổ chức khoa học, chặt chẽ, phân chia vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức.
+ Hệ thống chính trị được tổ chức rộng rãi hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Sự thống nhất của mục tiêu hoạt động cơ bản là phục vụ lợi ích của nhân dân và đất nước.
+ Thành viên của hệ thống chính trị do Đảng cộng sản thành lập.
2. Vị thế và vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước giữ vai trò trung tâm, lãnh đạo quản lý xã hội. Sở dĩ như vậy là do nhà nước có hai lợi thế đặc biệt quan trọng so với các tổ chức thành viên khác trong hệ thống chính trị:
Thứ nhất, nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức chính trị mang quyền lực của nhân dân, thể hiện ý chí và lợi ích của nhân dân một cách tập trung và đầy đủ nhất.
Hai là, nhà nước là công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân.
* Hai lợi thế này đến từ cơ sở và điều kiện của các quốc gia sau:
+ Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, là cơ sở xã hội rộng rãi để thực hiện chính sách và pháp luật của nhà nước. Nhà nước có một hệ thống rất lớn các cơ quan đại diện từ trung ương đến địa phương, do nhân dân bầu ra nên quyết định các thiết chế còn lại của nhà nước.
+ Nhà nước là cơ quan chủ yếu của quyền lực chính trị, công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực của nhân dân, có cơ quan quản lý xã hội và thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết.
+ Nhà nước quản lý xã hội thông qua pháp luật, hệ thống pháp luật, đường lối của Đảng, chính sách và đường lối quốc gia, kết hợp với các phương tiện khác để điều tiết xã hội, đặc biệt là đạo đức.
+ Đối nội của đất nước là tối cao, đối ngoại là độc lập
+ Nhà nước là người sở hữu tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Nhà nước có nền tảng vật chất và tài chính to lớn, đảm bảo thực hiện các chức năng của nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội.
= & gt; Tất cả những điều kiện, cơ sở nêu trên thể hiện lợi thế, thế mạnh, vai trò của đất nước, đồng thời khẳng định vị thế đặc biệt của đất nước trong hệ thống chính trị Việt Nam: đất nước là trung tâm, là trụ cột, là công cụ đắc lực để hệ thống chính.
=> / p>
Phần 2: Lý luận pháp lý
Phần 28: Lịch sử hình thành pháp lý
-Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đó là một tất yếu khách quan. Theo quan điểm chủ quan, pháp luật do nhà nước xây dựng và bảo đảm thực hiện đã trở thành công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, đồng thời nó quy định việc quản lý xã hội theo mục đích của nhà nước. Nhà nước cũng là mục tiêu phấn đấu của giai cấp thống trị.
– Trước khi pháp luật ra đời, các tổ chức thị tộc và bộ lạc điều hành xã hội bằng phong tục tập quán, thực chất là nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Khi nhà nước ra đời và các quan hệ xã hội phát triển vượt bậc cả về chiều rộng lẫn chiều sâu thì những phong tục này không thể điều chỉnh được nữa mà cần phải có một chuẩn mực xã hội mới. Đó là luật.
Phần 29: Tổng quan về Trường phái khái niệm pháp lý
1. Ý kiến pháp lý của Trường Luật Tự nhiên
– Có hai loại luật: luật tự nhiên và luật nhà nước
= & gt; law = luật tự nhiên + luật tiểu bang
– Thay mặt các đại diện: grotius, thomas hobbes, Monstesquieu, hegal …
2. Các khái niệm pháp lý của Trường Luật Tích cực
– Luật pháp bắt nguồn từ các quốc gia và từ các quốc gia. Luật pháp phải do con người làm ra. Pháp luật chỉ là những nguyên tắc ràng buộc do nhà nước thực hiện, thừa nhận trái đạo lý, công lý không làm mất hiệu lực của pháp luật.
– Luật pháp là một hệ thống tiêu chuẩn có thứ bậc.
3. Các khái niệm pháp lý trong lý thuyết xã hội học về luật
– Pháp luật không có bản chất vốn có, cũng không được gói gọn trong các văn bản quy phạm pháp luật xuất phát từ chính cuộc sống. Luật pháp không được đặt thành đá, mà thay đổi theo xã hội, trước đây là trừng phạt, bây giờ là đền bù và hài hòa xã hội, thiết kế xã hội.
– Pháp luật là một công cụ để giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao lên một tiêu chuẩn chung
-Pháp luật có chức năng tạo sự đồng thuận xã hội (vì trong xã hội luôn tồn tại những mâu thuẫn và xung đột lợi ích)
– Cuộc sống là nguồn gốc thực sự của luật pháp, nếu luật pháp không xuất phát từ cuộc sống thì nó sẽ “chết”
– Trường này đánh giá cao vai trò của các thẩm phán trong việc đưa ra luật
4. Luật theo khái niệm tâm lý học pháp lý
-Những trái tim bắt nguồn từ hành vi tâm lý của con người và phải phù hợp với tình cảm đạo đức và pháp luật
-Tâm lý học-Quy luật cảm xúc của con người (cảm xúc đạo đức và cảm xúc pháp lý)
– Luật của đất nước: nếu phù hợp với cảm xúc của con người là luật (nói và thể hiện tiếng nói của mọi người)
5. Trường Luật Lịch sử
Theo quan điểm của thibaut về hệ thống hóa pháp luật của Đức => Sự ra đời của trường phái luật lịch sử
– Pháp luật bị ràng buộc bởi các điều kiện lịch sử, văn hóa và xã hội. Vì vậy, muốn hiểu luật người ta phải trải qua lịch sử, tức là phải hiểu luật trong một quá trình phát triển
– Quy luật xuất phát từ lịch sử (muốn tồn tại phải có yếu tố nội sinh, phù hợp với hoàn cảnh sống, thuần phong mỹ tục của dân tộc)
= & gt; Mỗi quốc gia và dân tộc có hình thức pháp lý riêng
6. Quan điểm của người theo chủ nghĩa xã hội về luật pháp
– Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước (giai cấp thống trị)
– Pháp luật là công cụ nhà nước quản lý xã hội. Luật do nhà nước ban hành hoặc công nhận và được bảo đảm bởi lực lượng cưỡng chế của nhà nước
– Quy luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng và chịu sự điều chỉnh của các điều kiện của cơ sở hạ tầng.
Phần 30: Bản chất, các thuộc tính cơ bản của pháp luật, So sánh với các loại quy phạm xã hội, các mối quan hệ thực tiễn
1. Bản chất của Luật:
– Danh mục:
– Kỹ năng xã hội :
– Quốc gia : Pháp luật được xây dựng trên cơ sở dân tộc, mang đậm tính dân tộc, phản ánh phong tục tập quán, đặc điểm lịch sử, điều kiện địa lý, nét đặc sắc, văn minh, văn hóa của dân tộc
– Tính cởi mở : Sẵn sàng chấp nhận những thành tựu của văn minh nhân loại và văn hóa pháp luật để làm giàu cho bản thân.
2. Các thuộc tính cơ bản của luật:
– Mức độ phổ biến
– Tính nghiêm minh về hình thức : Pháp luật có đặc điểm là nội dung pháp lý rõ ràng, chính xác thông qua các điều khoản, văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo xác định chặt chẽ hình thức pháp lý:
– Luật tiểu bang đảm bảo hiệu suất:
Các phương tiện nhà nước thực hiện pháp luật rất đa dạng: phương tiện hành chính, phương tiện kinh tế, phương tiện tổ chức tư tưởng, phương tiện tuyên truyền, phương tiện giáo dục pháp luật và biện pháp cưỡng chế. Sử dụng các biện pháp này, các biện pháp khác hoặc kết hợp các biện pháp dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Biện pháp cưỡng chế chỉ được sử dụng khi các biện pháp khác không có tác dụng.
– Có hệ thống, nhất quán, ổn định và năng động
li>
3. So sánh với các loại chuẩn mực xã hội khác:
– Bắt buộc đối với tất cả mọi người.
– Do nhà nước cưỡng chế.
– mang tính quy phạm, giới hạn và chủ thể buộc phải hành động trong giới hạn được pháp luật cho phép.
– Biểu thị thiện chí bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
– tùy chọn.
– Việc thực thi không được đảm bảo, nhưng mang tính tự nguyện và tự nguyện.
– Không có tính nhất quán, không rõ ràng, cụ thể về mặt pháp lý.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
– liên quan đến tiểu bang, được ban hành hoặc công nhận bởi tiểu bang.
– Mạnh mẽ, không xúc động, thể hiện sự ngăn cản.
– Cấu trúc gồm 3 phần: Giả định, Điều khoản, Chế tài.
– Do tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo xác định hoặc do chính tổ chức đó hình thành trong các mối quan hệ xã hội.
– là quy tắc ứng xử không bắt buộc, chỉ có giá trị đối với các thành viên của tổ chức.
Câu 31: Chức năng của pháp luật trong mối quan hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
1. Chức năng pháp lý: gồm 3 chức năng:
– Chức năng điều chỉnh của pháp luật: thể hiện vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác lập “trật tự” của các quan hệ xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo một hướng nhất định theo quy luật. Sự vận động khách quan của các quan hệ xã hội.
-Chức năng bảo vệ: là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Trong trường hợp có hành vi trái pháp luật hoặc hành vi xâm phạm đến mối quan hệ xã hội mà pháp luật đã quy định thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thực hiện các biện pháp bắt buộc do pháp luật quy định và có cơ sở xử phạt đối với người phạm tội. Những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của cá nhân thì bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự, nếu để xảy ra thiệt hại về tài sản thì bồi thường theo quy định của pháp luật về dân sự.
– Chức năng giáo dục của pháp luật: được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức của con người, để con người hành động phù hợp với các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên truyền vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể bằng cách xử lý những người vi phạm (phạt vi phạm giao thông, xét xử thủ phạm). tội hình sự …)
2. Liên hệ:
– Chức năng điều chỉnh của pháp luật: Phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng mở rộng. Trong thời kỳ đổi mới, đất nước ta đã thiết lập khuôn khổ pháp lý mới trên tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các nguyên tắc quản lý xã hội theo pháp luật và tăng cường nhà nước pháp quyền đã được thể hiện và thực hiện.
– Trong thời gian tới, công tác lập pháp cần tập trung vào các lĩnh vực quan trọng của quan hệ xã hội như: thiết lập khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc hình thành đồng thời thể chế thị trường, đơn giản hóa thủ tục hành chính: xóa bỏ cơ chế “xin cho” .. .
– Chức năng bảo vệ: Trong sự nghiệp trẻ hóa đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bảo vệ và bảo vệ quyền con người thông qua việc thực hiện hệ thống pháp luật và các cơ chế xã hội, luật pháp. Pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quy định pháp luật liên quan đến quyền khiếu nại và chỉ trích, quyền được học hành, học tập, hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, quyền tự do cá nhân: thư tín, điện thoại, chỗ ở, quyền bất khả xâm phạm bí mật đời tư .. .được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nước ta cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về hình thức, thủ tục và cơ chế thực hiện quyền con người.
– Chức năng giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay được thực hiện thông qua hoạt động áp dụng pháp luật thông qua nhiều hình thức và phương thức như công khai, tư vấn, trợ giúp pháp lý. Căn cứ vào trình độ, điều kiện và nhu cầu của đối tượng giáo dục mà thực hiện hình thức, phương pháp, nội dung giáo dục pháp luật. Tạo môi trường văn hóa pháp lý, các cơ quan công quyền và nhân viên của mình tuân thủ pháp luật và các quy định, bảo đảm tính đúng đắn của các quyết định áp dụng pháp luật.
Phần 32: Mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế, luật pháp và chính trị, so với hiện trạng ở Việt Nam
1. Quan hệ kinh tế – pháp luật
– Pháp luật là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng của xã hội, và kinh tế là một yếu tố của cơ sở hạ tầng.
– Pháp luật sinh ra trên cơ sở hạ tầng và bị ràng buộc bởi cơ sở hạ tầng pháp lý. Cơ sở hạ tầng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Về kinh tế, luật lệ thuộc vào nền kinh tế, mặt khác, luật có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
– Các quan hệ xã hội không chỉ là nguyên nhân trực tiếp của pháp luật mà còn là toàn bộ nội dung, hình thức, cấu trúc và sự phát triển của nó.
Sự phụ thuộc của pháp luật vào nền kinh tế chủ yếu thể hiện ở các khía cạnh sau:
Tác động tiêu cực của luật đối với nền kinh tế:
Khi pháp luật được thể hiện dưới góc độ kinh tế, pháp luật là hiện thân ý chí của giai cấp thống trị với tư cách là lực lượng tiến bộ xã hội, phản ánh trình độ kinh tế dẫn dắt sự phát triển kinh tế, pháp luật tạo hành lang tốt cho nền kinh tế. phát triển, xây dựng.
Ví dụ, khi pháp luật thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước thì tạo điều kiện giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội. Bang hội …
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế này sang cơ chế kinh tế khác, quan hệ kinh tế cũ chưa hoàn toàn biến mất, quan hệ kinh tế mới đang hình thành và phát triển nhưng chưa ổn định. Quy luật có thể kích thích sự phát triển của nền kinh tế về những mặt này, Nhưng kìm hãm sự phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế trên các lĩnh vực và khu vực khác.
Ví dụ, những quy luật của xã hội phong kiến trong thời kỳ lạc hậu sau này không phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp nước ta hiện nay.
2. Quan hệ Chính trị-Pháp lý
– Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị trong việc hình thành và tổ chức bộ máy nhà nước:
Khi hệ thống pháp luật của tổ chức không đầy đủ, đồng bộ, không phù hợp, không chính xác, không thể làm cơ sở cho việc thành lập và hoạt động của bộ máy nhà nước thì sẽ dễ dẫn đến sự trùng lặp, chồng chéo, không phù hợp chức năng của các tổ chức. trong bộ máy nhà nước. Ngoài ra, pháp luật xác định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong bộ máy nhà nước.
– Quan hệ chính trị, luật pháp trong quan hệ đối ngoại của các quốc gia:
– Luật pháp và chính sách của giai cấp thống trị:
Mục 33: Mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước, thực trạng ở Việt Nam
– Nhà nước và pháp luật luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nó được thể hiện ở sự tác động qua lại giữa nhà nước và pháp luật.
– Vừa phụ thuộc lẫn nhau, vừa độc lập tương đối, những đặc điểm này thể hiện trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và xây dựng, thi hành pháp luật: bộ máy nhà nước sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, nhưng pháp luật đòi hỏi bộ máy nhà nước phải bảo vệ và đảm bảo cho việc thực thi pháp luật.
– và sự tương tác của nhà nước và luật pháp, cả tích cực và tiêu cực, ở một mức độ nào đó. Ví dụ, nếu nhà nước không đáp ứng những yêu cầu tối thiểu của người dân thì sẽ có tác động tiêu cực đến đời sống pháp luật, như mất niềm tin vào pháp luật và người dân không còn tuân theo pháp luật nữa.
– Nhà nước và pháp luật đều có chung tiền đề xã hội để xuất hiện và phát triển. Nhà nước và pháp luật không thể độc lập với nhau, nhà nước không thể điều hành xã hội nếu không có pháp luật, và tương tự, pháp luật không thể hoạt động nếu không có sự bảo đảm của nhà nước.
= & gt; Đối với Việt Nam ngày nay, việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước phải đi đôi với hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật. Trong quản lý xã hội, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải coi pháp luật là vũ khí quan trọng nhất. Để các chính sách quốc gia được thực hiện thống nhất và đồng thời trên phạm vi cả nước, cần phải thông qua các thủ tục pháp lý hợp lý.
Mục 34: Mối quan hệ giữa luật và tục, luật và đạo đức; mối quan hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
– Mọi xã hội đều tồn tại dựa trên những quy tắc, luật lệ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bởi vì cả hai đều tham gia vào việc điều chỉnh hành vi của con người và các quan hệ xã hội, giữa pháp luật, phong tục, đạo đức luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng, tương đối độc lập, tác động lẫn nhau, vừa tích cực vừa tiêu cực.
-Ví dụ, theo phong tục cổ xưa, người phụ nữ sau khi kết hôn phải hoàn toàn dựa vào chồng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến luật hôn nhân và gia đình.
-Trong hệ thống điều tiết xã hội, pháp luật và đạo đức đóng vai trò trung tâm và có vị trí quan trọng nhất. Khi cần thiết, pháp luật phải có nghĩa vụ hỗ trợ và bảo vệ các chuẩn mực xã hội và lợi ích đạo đức theo phong tục tập quán.
= & gt; Đối với nước ta hiện nay, pháp luật ngày càng coi trọng và ghi nhận những tập quán, phong tục tốt thể hiện đạo đức dân tộc. Nhiều quy tắc đạo đức cho các mối quan hệ xã hội khác nhau cũng đã được hệ thống hóa. Thông qua các quy định cụ thể và có nguyên tắc, pháp luật cũng giúp loại bỏ các tập quán lạc hậu và không vi phạm.
1. Bản chất của pháp luật Việt Nam
Bản chất của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa là giai cấp, xã hội và con người. pl có vai trò chi phối điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng giá trị và chức năng của pháp luật chỉ có thể được bảo đảm và phát huy khi nó được kết hợp chặt chẽ với các phương tiện điều chỉnh xã hội khác. .
Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được nhà nước bảo đảm trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế, có tính bắt buộc chung, phản ánh ý chí và lợi ích của người lao động; thu hút toàn xã hội. Tham gia tích cực vào công tác pháp chế và Hội đồng lập pháp, điều chỉnh các quan hệ xã hội, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Vai trò của pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo vệ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nghiêm trị mọi hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. pl không chỉ quy định quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân mà còn quy định cơ chế pháp lý, quy phạm pháp luật và thủ tục thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của cd. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật quy định và bảo vệ trong mọi lĩnh vực của xã hội. Bộ máy nhà nước, trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước và thủ tục hành chính được đổi mới mạnh mẽ nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tiết 37: Nguyên tắc pháp luật Việt Nam: khái niệm, nội dung?
1. Khái niệm:
Các nguyên tắc pháp luật Việt Nam là tư tưởng chỉ đạo cơ bản, xuất phát điểm và phương hướng, tuân theo các quy luật khách quan của xã hội, xuyên suốt nội dung và hình thức của pháp luật. , toàn bộ thông lệ pháp lý, hợp đồng xdpl, áp dụng luật, hành động pháp lý, nhận thức pháp luật
2. Nội dung
-Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất tự nhiên của nước ta và đã được quán triệt trong pháp luật, trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật, là một nguyên tắc hiến định. Điều 2 của Hiến pháp 2013 nêu rõ:Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa nhân dân do pháp luật, nhân dân cai trị, vì nhân dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng là khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
Quyền lực của nhà nước là thống nhất và các thiết chế của nhà nước được phân bổ, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đòi hỏi pháp luật và hợp đồng tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật phải phản ánh toàn bộ quyền lực của nhân dân, nắm bắt tư tưởng của nhân dân với tư cách là cơ quan tối cao của quyền lực
p>
Trong những năm gần đây, nhân dân nước ta đã tham gia rà soát việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra, giám sát hợp đồng giữa nhà nước và xã hội, đặc biệt là hoạt động tư pháp.
-Principles of Democracy xhcn
Công nhận các quyền tự do, dân chủ của công dân và bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý đất nước và xã hội dưới hình thức pháp luật. Dân chủ thể hiện ở quyền và nghĩa vụ hợp pháp của cá nhân, tổ chức, phải được pháp luật thừa nhận và được nhà nước và xã hội thực hiện bằng những hình thức phù hợp. Luật xác định các hình thức thực hiện dân chủ: trực tiếp và gián tiếp (đại diện), những gì và cách thức thực hiện và cơ chế thực hiện các hình thức này. Xét trên quy mô toàn xã hội và quy mô cộng đồng dân cư, dân chủ chỉ có thể được thực hiện tốt nhất bằng một cuộc cải cách lớn của hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cấp cơ sở.
Nước ta đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ ở cơ sở, thường là Nghị định số 29 / cp ngày 11 tháng 5 năm 1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là dân chủ ở cơ sở) .
– Nguyên tắc Nhân đạo
Nguyên tắc này xuất phát từ sự tôn trọng, chăm sóc và bảo vệ con người – những giá trị cao nhất. Yếu tố con người, hệ thống các quyền và tự do của con người phải được điều chỉnh và cơ chế bằng pháp luật. Bảo đảm có hiệu quả các nguyên tắc thống nhất về quyền và nghĩa vụ, quyền tự do và trách nhiệm của con người, thúc đẩy nhiệt tình và tự do sáng tạo của con người. Các nguyên tắc nhân đạo thể hiện việc đối xử với người phạm tội. Vi phạm pháp luật không phải là xúc phạm thân thể và danh dự, nhân phẩm và nhân phẩm của con người cũng được thể hiện trong hệ thống các quy định được đưa ra theo hướng tốt nhất cho con người trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức.
Trong Bộ luật Hình sự năm 1999, có xu hướng giảm bớt các biện pháp xử lý hình sự vừa nghiêm khắc, vừa mang tính giáo dục, mở đường cho người phạm tội hoàn lương.
-Nguyên tắc thống nhất các quyền và nghĩa vụ pháp lý
Thể hiện nguyên tắc thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ: chủ thể pháp luật vừa có quyền vừa có nghĩa vụ pháp lý tương ứng, được khẳng định tại Điều 15 của Hiến pháp năm 2013
Quyền công dân không thể tách rời nghĩa vụ công dân.
Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.
Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình đối với đất nước và xã hội.
Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích quốc gia và quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Nguyên tắc này cũng nêu rõ mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân trong nhà nước pháp quyền. Giữa nhà nước và cá nhân có mối quan hệ bình đẳng.
-Nguyên tắc công bằng
Công nhận, bảo vệ và đảm bảo công lý là một trong những giá trị xã hội to lớn của pháp luật, đặc biệt là ở các quốc gia được cai trị bằng pháp luật
Nguyên tắc công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều khía cạnh, điển hình là: việc quy định và áp dụng các biện pháp xử lý phải phù hợp với tính chất và mức độ vi phạm, xác định mức hưởng tương xứng với đóng góp và cống hiến. của xã hội, công bằng có những đặc điểm riêng, như công bằng trong thụ hưởng các giá trị văn hóa, lao động, việc làm, chăm sóc y tế, giáo dục, v.v.
-Nguyên tắc “làm những gì pháp luật không cấm” vì người dân và “chỉ làm những gì được pháp luật cho phép” vì đất nước
Đây là hai nguyên tắc pháp quyền phổ biến được quan tâm đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và tiến trình dân chủ hóa.
Phần 38: Nhận thức pháp lý: Các khái niệm, cấu trúc (các cấp độ) của Nhận thức pháp luật, Tư duy pháp lý và Tâm lý pháp lý
1. Khái niệm
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội và là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa xã hội. Nhận thức pháp luật có thể được định nghĩa là tổng hợp các lý thuyết, suy nghĩ và cảm xúc mà mọi người thể hiện về thái độ và đánh giá công bằng hoặc không công bằng của họ đối với các luật hiện hành. củ hành. Luật của quá khứ và luật phải có, liên quan đến tính hợp pháp hoặc không hợp pháp của các hành động của con người, thể chế và tổ chức.
2. Cấu trúc của nhận thức pháp luật bao gồm: Tâm lý pháp lý và Tư tưởng pháp lý
* Dựa trên trình độ và giới hạn nhận thức
– Kiến thức pháp luật
– Ý nghĩa lý thuyết của luật
* chủ đề dựa trên ytpl
– Nhận thức Pháp luật Xã hội
– Ý thức về luật nhóm
– Nhận thức Pháp lý Cá nhân
Qua định nghĩa trên có thể thấy: xét từ góc độ nội dung, ý thức pháp luật bao gồm hai bộ phận: tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
+ Tư tưởng pháp luật là tổng thể các tư tưởng, quan điểm, phạm trù, khái niệm, lý luận về pháp luật, tức là tất cả những vấn đề lý luận về pháp luật, về kiến trúc thượng tầng hợp pháp của xã hội. bang hội.
+ Tâm lý pháp luật được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm, cảm xúc về pháp luật và các hiện tượng pháp luật khác, được hình thành một cách tự phát thông qua giao tiếp và sự tác động của pháp luật. Các hiện tượng pháp lý là phản ứng tự nhiên của con người đối với các hiện tượng đó.
Phần 39: Những Đặc điểm Cơ bản của Nhận thức Pháp luật
Ý thức pháp luật có những đặc điểm sau:
Thứ nhất với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự điều chỉnh của các quy luật tồn tại xã hội, nhưng nó có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở một số khía cạnh:
+ Có xu hướng lạc hậu hơn tồn tại xã hội
+ Tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp lý khoa học, có thể vượt ra khỏi sự phát triển của tồn tại xã hội trong những điều kiện nhất định.
+ Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội kế thừa ý thức pháp luật thời đại trước. Tất nhiên các yếu tố kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
+ Ý thức pháp luật có tác động trở lại tồn tại xã hội. Nó có thể là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của hiện tượng.
Thứ hai , ý thức pháp luật là một hiện tượng mang tính giai cấp. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật, nhưng có một số hình thức ý thức pháp luật: ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị và ý thức pháp luật của tầng lớp trung lưu. thời gian.
Phần 40: Nhận thức Pháp luật và Luật
Ý thức pháp luật và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Các nguyên tắc và cơ sở của việc xây dựng và thực hiện pháp luật, các nguyên tắc và cơ sở để hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật được thể hiện ở những điểm sau:
1. Nhận thức pháp luật là tiền đề trực tiếp về mặt tư tưởng để thiết lập và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Pháp luật là hiện thân của ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Những thay đổi khách quan của đời sống xã hội trước hết được phản ánh trong ý thức pháp luật, sau đó là các quy phạm pháp luật tương ứng. Không có ý thức pháp luật phù hợp với tính chất và hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn phát triển của xã hội thì không thể hình thành hệ thống pháp luật đồng bộ và phù hợp.
2. Ý thức pháp luật là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh sự phát triển của các quan hệ xã hội theo hướng phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy nhiên, mục đích của điều chỉnh pháp luật được thực hiện thông qua hành vi của con người và các tổ chức xã hội, trong đó hành vi tự giác của công dân phù hợp với yêu cầu của pháp luật là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đảm bảo hiệu lực của pháp luật.
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của công dân và thái độ của họ đối với quy định của pháp luật. Vì vậy, nếu ý thức pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần tôn trọng pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật càng được bảo đảm.
3. Nhận thức pháp luật là cơ sở để đảm bảo việc áp dụng đúng các quy phạm pháp luật
Ý thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng pháp luật. Để áp dụng đúng quy phạm pháp luật, cần hiểu chính xác nội dung và yêu cầu của quy phạm, đồng thời phải hiểu và làm rõ nội dung, ý nghĩa của quy phạm. Để làm được điều này, ý thức pháp luật của những người áp dụng pháp luật cần được phát triển đầy đủ, đồng thời phải có nền tảng văn hóa pháp lý vững chắc.
4. Pháp luật là cơ sở để củng cố, phát triển và nâng cao nhận thức pháp luật
Đến lượt mình, pháp luật là sản phẩm trực tiếp của hoạt động lập pháp, vì vậy nó phản ánh ý thức pháp luật của cơ quan lập pháp và nhân dân, được hình thành trên cơ sở ý chí của cơ quan lập pháp. ý thức. Thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, ở mức độ nhất định, kiên quyết loại bỏ những hành vi vi phạm pháp luật, làm cho quan điểm, khái niệm pháp luật đúng đắn, rõ ràng hơn để hình thành và phát triển. Giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật sẽ là điều kiện quan trọng để thúc đẩy việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và tổ chức thực thi pháp luật có hiệu quả.
Phần 41: Giáo dục Pháp luật: Khái niệm, Mục đích, Hình thức, Phương pháp, Tác dụng, Kết nối của Giáo dục Nhận thức Pháp luật
* Giáo dục pháp luật là sự tác động trực tiếp của sự kết hợp các quy trình xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, phổ biến và giải thích pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật.
gdpl có hai nghĩa: theo nghĩa rộng, gdpl là quá trình trong đó các yếu tố chủ quan và khách quan cùng tác động đến sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật của cá nhân. Yếu tố khách quan là điều kiện kinh tế, hệ thống chính trị xã hội, môi trường sống trực tiếp của cá nhân (người thân trong gia đình, bạn bè …). Yếu tố chủ quan là những hoạt động có tổ chức, có hệ thống của nhà nước và các thiết chế xã hội.
Mục đích : Cung cấp kiến thức pháp luật và cho phép sinh viên được giáo dục hình thành cảm xúc pháp lý và hành vi tuân thủ các yêu cầu pháp lý.
Giáo dục nhận thức pháp luật hiệu quả:
-Nâng cao dân trí, ươm mầm tài năng, rèn luyện nhân tài vì sự nghiệp xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
-Giáo dục nhân cách, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của các cá nhân trong xã hội hiện đại
– Xây dựng lòng yêu lao động và đánh giá đúng đắn các hiện tượng xã hội và pháp luật
Hình thức giáo dục pháp luật cơ bản:
– phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp – tuyên truyền miệng, phổ biến pháp luật
– gdpl trên các phương tiện thông tin đại chúng, viết giáo trình, tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật
– Gdpl của trường
– tổ chức kỳ thi luật
– Phổ biến, gdpl, xây dựng, quản lý, xây dựng tủ sách pháp luật thông qua các hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật
– Phổ biến, GDPL Phê duyệt Hợp đồng Tư vấn Pháp lý và Trợ giúp Pháp lý
– Thông qua các ủy ban hòa giải ở cơ sở, thông qua các hoạt động văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền thống, để phổ biến gdpl
Phương pháp:
– Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức để nâng cao đời sống công cộng, văn hóa, tinh thần và nâng cao trình độ học vấn của nhân dân. Hoàn thiện pháp luật và các quy định theo hướng thực tiễn, thể hiện và có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước
– Đẩy mạnh trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật và trừng phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm pháp luật. Sự kết hợp của nhiều hình thức vận động và giáo dục pháp luật phù hợp
Ở Việt Nam, nghĩa hẹp là gdpl là hoạt động chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm hình thành và phát triển ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa. , động cơ và thói quen của mọi người. gdpl là hình thức giáo dục tương đối độc lập với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và thẩm mỹ.
Câu 42: Văn hóa pháp luật: tư tưởng, biện pháp chủ yếu để xây dựng văn hóa pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ngày nay.
1. Khái niệm
Xem Thêm : Tổng hợp lời chúc ngày Báo chí Việt Nam 21/6 hay và ý nghĩa nhất
Văn hóa pháp lý là cách nhìn về luật đặt luật trong mối quan hệ đa chiều với khoa học hành vi, cách nghĩ, cách làm, tôn giáo, tín ngưỡng và các đặc điểm nhân chủng học của cá nhân, cộng đồng và nhóm chủng tộc.
2. Phương hướng xây dựng văn hóa pháp luật Việt Nam
Có thể nói, hài hòa các giá trị pháp lý và văn hóa gắn với thế giới là yêu cầu thực tế khách quan của chúng ta. Cân bằng giữa “cái mình có” và “cái mình cần” để tạo nên diện mạo mới của văn hóa pháp luật dân tộc được coi là nội dung cốt yếu nhất của phương hướng xây dựng văn hóa. Pháp luật Việt Nam ngày nay.
Thứ nhất : Bảo vệ và phát triển văn hóa pháp luật dân tộc: không quốc gia nào đánh mất bản sắc văn hóa của mình trước sức ép của toàn cầu hóa một cách toàn diện và nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu một hướng bảo thủ trong văn hóa dân tộc và không cởi mở chấp nhận các giá trị văn hóa nói chung, văn hóa pháp luật nói riêng của chúng ta sẽ trở thành ốc đảo trong thế giới văn minh, và không tránh khỏi cảm giác thấp kém, lạc hậu. Về lý luận, mục tiêu cuối cùng của xây dựng văn hóa là tạo ra hai yếu tố: môi trường văn hóa và con người văn hóa. Hai yếu tố này tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó yếu tố con người là quyết định. Việc xây dựng văn hóa pháp luật không thể tách rời những người có văn hóa pháp luật và giáo dục pháp luật. Mặt khác, do văn hóa pháp luật chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở ý thức pháp luật và ý thức pháp luật ý thức giá trị xã hội nên tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với vai trò của chủ thể pháp luật trước hành vi thực tế của mình. Muốn vậy, một hệ tư tưởng pháp luật mang đặc trưng Việt Nam phải được hình thành. Hệ tư tưởng pháp luật là nguyên tắc, hệ tư tưởng, quan điểm thể hiện bản chất, phương pháp luận khách quan và hệ tư tưởng giai cấp trong pháp luật (hoặc thông qua pháp luật). Hệ tư tưởng pháp luật hướng dẫn hành vi thực tế của chủ thể trong quan hệ pháp luật là hình thức phản ánh của văn hóa pháp luật hiện thực. Tư tưởng pháp luật Việt Nam phải là sự kết hợp các nguyên tắc pháp luật, pháp luật xã hội chủ nghĩa với truyền thống lý luận và lịch sử của pháp luật Việt Nam. Đó phải là sự kết hợp hài hòa giữa quan niệm pháp luật mácxít với các giá trị xã hội pháp lý và tư duy pháp luật của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ tư tưởng pháp luật này dựa trên một hệ thống nguồn gốc pháp lý đa dạng, phải phản ánh đường lối và chính sách của đảng ở các giai đoạn khác nhau, cũng như sự thừa nhận các chuẩn mực đạo đức, tính ưu việt và phong tục truyền thống. Trong quá trình nâng cao nhận thức pháp luật, các yếu tố, giá trị đạo đức truyền thống, lịch sử cội nguồn của dân tộc cần được khơi gợi để thúc đẩy hình thành động cơ, thái độ hành vi lành mạnh, chính đáng. Tâm lý pháp luật đúng đắn và tích cực là ở ý thức chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật thực tế. Tuy nhiên, từng góc độ cụ thể và biểu hiện của văn hóa pháp luật cần được làm rõ để hình thành giải pháp phù hợp.
Thứ hai: Vấn đề chấp nhận các giá trị văn hóa pháp lý của con người: toàn cầu hóa, hợp tác và cạnh tranh là xu hướng khách quan của thập kỷ này và vài thập kỷ tới. Trong tất cả các lĩnh vực xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật, bảo vệ và tiếp nhận các giá trị văn hóa pháp luật, cần quán triệt sâu sắc khái niệm chủ động hội nhập. Đây là một thực tế khách quan, bởi văn hóa luôn có tính phổ biến, là sản phẩm của con người, không thể khép mình để bác bỏ những giá trị và loại hình văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, đây cũng là một thách thức lớn, khi toàn cầu hóa đang tiến nhanh trên mọi lĩnh vực, và chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ (và không phải do những khoảng trống quá lớn) về những gì cần thiết để chấp nhận nội dung toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa sẽ gây nhiều áp lực cho nền kinh tế và thương mại, đặc biệt là việc gia nhập WTO. Và, nếu không đáp ứng được các điều kiện cần thiết để chấp nhận hoặc chấp nhận nửa vời, thì toàn cầu hóa sẽ có hại cho nền kinh tế và xã hội của chúng ta. Cùng với quá trình này, toàn cầu hóa sẽ làm thay đổi quy mô của các giá trị pháp lý và xã hội mà nước ta đã chấp nhận từ lâu, mặc dù có những hạn chế nhất định. Điều này cũng có nghĩa là các giá trị pháp lý và văn hóa được truyền tải thông qua nội dung và hoạt động của quá trình toàn cầu hóa sẽ thâm nhập vào nước ta một cách không đầy đủ, bị bóp méo và khó được chấp nhận rộng rãi. Đồng thời, xu thế toàn cầu hoá là xu thế phát triển, tiến bộ và đa dạng hoá của con người. Cần hiểu đúng nội hàm, yêu cầu, đặc điểm và những thuận lợi, khó khăn, thách thức của đất nước, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý, tiếp nhận các giá trị pháp lý của văn minh nhân loại. Điều này đòi hỏi phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị của văn hóa pháp luật thế giới, với phương châm hòa quyện không hòa tan, đồng thời mở rộng giao lưu với các nền văn hóa khác dưới nhiều hình thức. Nâng cao ý thức pháp luật của mọi đối tượng và khả năng ứng xử với các tình huống pháp luật thực tế để thích ứng với nếp sống mới – nếp sống văn minh theo pháp luật. Đồng thời, bỏ quan niệm coi trọng đạo đức, lối sống nhân văn, giảm nhẹ vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội.
Mục 43: Quy phạm pháp luật: Khái niệm, cấu trúc (cấu trúc), các biểu hiện pháp lý của quy phạm pháp luật.
1. Khái niệm
Luật pháp và quy định là các quy tắc và tiêu chuẩn mà tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan nói chung có nghĩa vụ thực hiện hoặc thực thi và được ban hành hoặc công nhận bởi các cơ quan quản lý ở một quốc gia có thẩm quyền. Quy phạm pháp luật là tế bào, đơn vị cơ bản của cấu trúc quy phạm pháp luật (bao gồm quy phạm pháp luật, hệ thống quy phạm pháp luật, ngành pháp luật và hệ thống pháp luật). Cấu trúc của quy phạm pháp luật bao gồm ba phần. Đây tương ứng là các giả định, quy định và chế tài, nhưng không nhất thiết phải có cả ba phần của quy phạm pháp luật.
2. Cấu trúc của các quy phạm pháp luật (cấu trúc)
3. Biểu thức pháp lý
Các quy phạm pháp luật có trong các văn bản pháp luật, tiền lệ pháp và tập quán pháp (luật tục), trong số các hình thức khác
& gt; & gt; & gt; Xem các bài viết khác: Xác định cấu trúc của luật
Câu 45 + 46. Văn bản quy phạm pháp luật (vbqppl).
+ Khái niệm, So sánh các văn bản pháp lý
+ Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc gia của Việt Nam
* Khái niệm: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục pháp lý, bao gồm các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện. Thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Hệ thống nộp đơn pháp lý bao gồm:
– Các văn bản do Quốc hội ban hành: hiến pháp, luật, nghị quyết. Các văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: nghị định, nghị quyết;
– Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở trung ương cấp:
+ Các mệnh lệnh và quyết định của Tổng thống;
+ Các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
+ Quyết định, chỉ thị, thông báo của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
+ Nghị quyết của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông báo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Các nghị quyết và thông báo chung giữa các cơ quan chức năng quốc gia, giữa các cơ quan chức năng quốc gia và các tổ chức chính trị – xã hội;
-Các văn bản do Quốc hội hoặc Ủy ban nhân dân cấp:
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
+ Các quyết định, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân.
* Hiệu lực của các văn bản pháp lý:
– Hiệu lực theo thời gian: Hiệu lực theo thời gian được xác định từ khi tài liệu được tạo ra cho đến khi tài liệu bị chấm dứt hiệu lực.
– Hiệu lực không gian: Phạm vi không gian của một văn bản pháp lý có thể là toàn bộ lãnh thổ quốc gia, hoặc nó có thể là một địa điểm hoặc khu vực.
– Đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật: Đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các cá nhân, tổ chức và các quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh.
* So sánh văn bản pháp luật với văn bản pháp luật
– Đồng nhất: Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Khác nhau:
+ chứa các quy tắc ứng xử chung
+ áp dụng cho tất cả các môn học
+ Hình thức: luật, vb theo luật
+ Chứa quy tắc ứng xử cụ thể
+ Áp dụng cho chủ đề được chỉ định
+ Bản phát hành dựa trên vbqppl
Đánh giá, quyết định …
câu 47 + 48. Hệ thống pháp luật (htpl). * Khái niệm : Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, phương hướng và mục đích. Pháp luật và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau. Chúng được chia thành các nhánh pháp luật, cơ quan pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới hình thức sau: Một số thủ tục nhất định.
* Thành phần:
-Về cấu trúc bên trong: htpl bao gồm luật và quy định, thể chế luật và nghề luật
+ Legal: Đây là đơn vị nhỏ nhất cấu thành htpl
+ Hệ thống pháp luật: là tập hợp các qppl điều chỉnh tập hợp các mối quan hệ xã hội thuần nhất có quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Nhánh pháp luật: Là hệ thống qppl điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
– Về hình thức: httpl gồm có vbqppl.
* Cơ sở để phân biệt và phân định các ngành luật: Có hai cơ sở chính:
– Chủ thể điều chỉnh: Là các quan hệ xã hội cùng loại, thuộc cùng một lĩnh vực đời sống xã hội, cần được điều chỉnh theo quy luật. Mỗi ngành luật sẽ điều chỉnh một loại quan hệ xã hội cụ thể.
– Phương pháp điều chỉnh: Là phương pháp tác động vào các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật này. Có hai phương pháp điều chỉnh chính:
+ Phương pháp tham vấn bình đẳng: Là phương thức tác động trong đó nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quan hệ pháp luật nhưng đưa ra khuôn khổ mà các bên trong quan hệ pháp luật có thể thỏa thuận. Trong khuôn khổ này, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật là bình đẳng
+ Phương thức ủy quyền: Là phương thức tác động trong đó một bên trong quan hệ pháp luật có quyền ra lệnh và bên kia phải đệ trình.
* Biểu mẫu được hợp pháp hóa:
-Khái niệm hệ thống hóa pháp luật: là hoạt động sắp xếp, điều chỉnh, bổ sung nội dung của vbqppl nhằm củng cố hệ thống htpl.
– Biểu mẫu được hợp pháp hóa:
+ Tổng hợp: Là sắp xếp các vbqppl hoặc tách các qppl theo một thứ tự nhất định, không thay đổi nội dung tài liệu, không thêm quy tắc mới mà chỉ cần loại bỏ các qppl đã hết hạn sử dụng đã tồn tại. Tổng hợp cho: Mọi cá nhân và tổ chức.
+ Mã hóa: là một hoạt động của cơ quan có thẩm quyền quốc gia, trong đó không chỉ các vbqppl hiện có được thu thập theo một trình tự nhất định để loại bỏ các thông số kỹ thuật lỗi thời và mâu thuẫn, mà các quy tắc mới được thêm vào để thay thế các qppl đã bị xóa và lấp đầy các khoảng trống và nâng cao hiệu quả của chúng. Kết quả của công việc, một vbqppl mới đã được sinh ra.
Mục 49. Hệ thống pháp luật của Việt Nam
1. Khái niệm cơ bản:
Khái niệm: Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, phương hướng, mục đích có liên quan chặt chẽ và thống nhất với nhau, được chia thành các ngành luật, hệ thống pháp luật và các văn bản ban hành ở Việt Nam được phản ánh trong. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với những hình thức và thủ tục nhất định.
Có hai khía cạnh cụ thể của hệ thống pháp luật:
* Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam:
– Hiến pháp – do Quốc hội ban hành
– Luật hoặc quy định do Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký ban hành. Ví dụ: Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hàng hải
– Các văn bản pháp lý bao gồm:
* Hệ thống cấu trúc của pháp luật Việt Nam bao gồm ba yếu tố cơ bản:
2. Hoàn thiện chuẩn htpl đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước pháp quyền tại Việt Nam
-Thiết lập và cải tiến luật kinh tế và cố gắng cải thiện hệ thống
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
– Phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, vì nhân dân phục vụ
p>
– Cải thiện pháp luật về giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội
– Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
– Xây dựng và hoàn thiện luật hội nhập quốc tế
– Phát triển và phê duyệt các chương trình phát triển luật / quy định sáng tạo.
-Cải thiện luật đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng của pháp luật
– Tăng cường các điều kiện để bảo vệ sự phát triển pháp luật
-Nâng cao phẩm chất, trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi pháp luật
– Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ và thường xuyên công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về hệ thống pháp luật
-Tăng cường giám sát việc thi hành pháp luật; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện và áp dụng pháp luật, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật
– Tăng cường các công cụ điều chỉnh xã hội khác để hỗ trợ pháp luật.
& gt; & gt; & gt; Xem Thêm: Quyền Ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật của các Tổ chức Nhà nước
Mục 50. Luật pháp:
* Khái niệm:
—— Về bản chất và ý nghĩa xã hội: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là yêu cầu tồn tại của hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, là nền tảng của sự tồn tại. Là chấp hành và thực thi đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân.
——Về hình thức: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một hệ thống đặc biệt của đời sống chính trị xã hội. Trong đó, mọi cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cán bộ nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác pháp luật.
* Nguyên tắc thống nhất của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa: Sự thống nhất của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đòi hỏi bộ máy nhà nước, địa phương và nhân dân cả nước đều phải thừa nhận và thực hiện cũng như toàn bộ hệ thống pháp luật đã được xây dựng. Một mặt, nó tạo điều kiện cho việc thực hiện pháp luật và xem xét hiệu lực của pháp luật. Theo sự “thao túng” riêng của nhà nước, chỉ cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền quyết định sự thay đổi của các văn bản quy phạm pháp luật. Bảo đảm sự thống nhất của nhà nước pháp quyền là điều kiện tất yếu để thực hiện dân chủ cho mọi công dân và quyền lực quốc gia.
* Nguyên tắc về sự thống nhất của luật pháp và mối quan hệ giữa tính hợp lý và công lý:
-Trong môi trường pháp luật, tính hợp lý được biểu hiện là tuân theo pháp luật, với mục đích đề ra, chủ thể lựa chọn phương án tối ưu cho việc thực hiện pháp luật. Cơ sở của tính hợp lý của pháp luật là phản ánh đúng yêu cầu của sự phát triển xã hội vào quy luật. Nếu pháp luật xác định một cách chính xác ý chí và các giá trị xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thì pháp luật chắc chắn là hợp lý.
-Các yêu cầu của luật là giải quyết các vấn đề cụ thể từ các nguyên tắc chung của luật và từ sự công bằng.
– Tính hợp pháp đòi hỏi mọi hoạt động phải tuân theo pháp luật, không trái pháp luật.
Mục 51. Thực thi pháp luật:
* Khái niệm :
Thực thi pháp luật là quá trình làm cho các quy định của pháp luật trở thành hiện thực và trở thành hành vi pháp lý thực tế của pháp nhân. pháp luật.
* Hình thức thực thi:
– Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực thi pháp luật mà pháp nhân không tham gia vào các hoạt động bị pháp luật cấm. Hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động và tuân thủ các quy định của pháp luật dưới hình thức không hành động.
– Cưỡng chế: là hình thức cưỡng chế mà pháp nhân có hành động tích cực để thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình. Ví dụ, người nộp thuế nộp thuế cho nhà nước đầy đủ và đúng hạn. Khác với việc tuân theo pháp luật, các hình thức cưỡng chế yêu cầu chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý dưới hình thức hành động tích cực.
– Sử dụng pháp luật: là hình thức thi hành pháp luật trong đó chủ thể của pháp luật thực hiện các quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi được pháp luật cho phép). Thực hiện quyền khởi kiện, khiếu nại trong khuôn khổ pháp luật, chẳng hạn như ký hợp đồng. Hình thức này khác với hình thức trên ở chỗ, chủ thể pháp luật có thể tự ý thực hiện hoặc không thực hiện các quyền được pháp luật cho phép chứ không phải bắt buộc phải thực hiện.
– Áp dụng pháp luật: Là hình thức thi hành pháp luật trong đó nhà nước tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật thông qua cơ quan có thẩm quyền của quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền. Đưa ra các quyết định gây ra, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Luật áp dụng là một hình thức luôn cần có sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan chức năng.
* Mối quan hệ giữa thực thi pháp luật và pháp chế và giáo dục pháp luật:
– Giúp tìm hiểu, phân tích và đánh giá các loại lợi ích xã hội, xu hướng xã hội trong hoạt động thực thi pháp luật.
-Làm rõ những yếu tố mới phát sinh từ khi luật được ban hành có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng luật
-Hiểu trình độ và khả năng của các tổ chức thực thi pháp luật
– Tìm hiểu về cơ chế thực thi
– Việc thực hiện pháp luật là yếu tố quan trọng để sàng lọc, kiểm tra tính đúng đắn của pháp luật để từ đó đưa ra chính sách pháp luật đúng đắn và phù hợp nhất nhằm giáo dục có hiệu quả. đạt cao nhất.
Câu 52: Áp dụng pháp luật
* Khái niệm:
Áp dụng pháp luật là hình thức thi hành pháp luật trong đó nhà nước tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các cơ quan ban ngành có thẩm quyền hoặc tự mình ra quyết định theo quy định của pháp luật. , thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Luật áp dụng là một hình thức luôn cần có sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan chức năng.
* Các tình huống bắt buộc phải có luật hiện hành:
– Quan hệ pháp luật với các quyền và nghĩa vụ cụ thể không tự động phát sinh nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. Đơn cử, một xác chết được phát hiện dưới sông có dấu hiệu bị đánh chết, cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố, trưng cầu giám định pháp y.
– Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên trong quan hệ pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể mà các bên không tự giải quyết được. Chẳng hạn như tranh chấp hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
– Khi cần thực hiện các biện pháp cưỡng chế quốc gia đối với người vi phạm theo chế tài của pháp luật. Người vi phạm bị phạt vì làm hàng giả, hàng nhái, v.v.
– Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước xét thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên trong quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số trường hợp thực tế công việc, sự kiện. . Ví dụ, tòa án tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người đã chết; nam nữ chung sống, không đăng ký kết hôn hoặc đăng ký tại một cơ sở không được phép và tuyên bố không công nhận vợ chồng.
* Đặc điểm của luật hiện hành:
– Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh của cá nhân đối với một chủ thể và một mối quan hệ.
– Hành pháp là hành vi của quyền lực nhà nước. Mỗi cơ quan, mỗi loại hình cơ quan và mỗi viên chức chỉ được áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định do nhà nước quy định.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông bị phạt vi phạm hành chính nhưng chỉ tham gia giao thông.
– Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi sự sáng tạo của những người áp dụng pháp luật.
– Áp dụng pháp luật là hoạt động tuân theo trình tự tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định.
* Các giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp lý.
– Phân tích và đánh giá đúng đắn và chính xác tất cả các chi tiết, hoàn cảnh và điều kiện của một sự kiện thực tế.
–Chọn qppl thích hợp và phân tích nó, làm rõ nội dung và ý nghĩa của qppl và sử dụng nó trong trường hợp ứng dụng
-Phát hành các văn bản pháp lý
– Các tài liệu tổ chức việc thực hiện các luật hiện hành đã ban hành
Mục 53: Quan hệ pháp luật: Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quan hệ pháp luật; Chủ thể pháp lý và chủ thể của quan hệ pháp luật; Năng lực và năng lực pháp luật.
1. Khái niệm:
Quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội mang tính pháp lý, xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật và sự điều chỉnh của các tình tiết pháp lý tương ứng, các bên có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định và được pháp luật bảo đảm và bảo vệ. dân tộc.
Pháp luật và các mối quan hệ xã hội: Mọi quan hệ pháp luật đều là quan hệ xã hội, nhưng không phải mọi quan hệ xã hội đều hợp pháp. Đây cũng là giới hạn tác động của pháp luật.
2. Các đặc điểm cơ bản của các mối quan hệ pháp lý
+ Các quy phạm pháp luật là nền tảng của các quan hệ pháp luật.
+ Quan hệ pháp luật của di chúc.
+ Các quan hệ pháp luật là kiến trúc thượng tầng.
+ Các bên tham gia quan hệ pháp luật có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.
+ Mối quan hệ pháp lý rõ ràng, cụ thể.
+ Quan hệ pháp luật được nhà nước đảm bảo và bảo vệ.
– Chủ thể quan hệ pháp luật: cá nhân, tổ chức tuân thủ đầy đủ các điều kiện quan hệ pháp luật khác nhau do nhà nước quy định và tham gia vào quan hệ pháp luật.
– Chủ thể: Một cá nhân, tổ chức có thể thỏa mãn các điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.
Khả năng chủ thể bao gồm hai yếu tố: khả năng pháp lý và khả năng hành vi
+ Năng lực pháp luật: khả năng được hưởng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
+ Năng lực hành vi: Là khả năng của một cá nhân, tổ chức được nhà nước thừa nhận thông qua hành vi của mình, khả năng chủ thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý, khả năng tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
– Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành động
+ nlpl và nlhv của chủ thể pháp luật không phải là thuộc tính tự nhiên của con người mà là thuộc tính pháp lý, vì nó phụ thuộc vào ý chí của nhà nước
+ Năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực, nếu chủ thể pháp luật chỉ có năng lực pháp luật mà không có năng lực pháp luật thì không thể tham gia tích cực vào qhpl (nlpl là điều kiện cần), nlhv là điều kiện đủ đối với cá nhân hoặc tổ chức trở thành chủ thể quan hệ pháp luật.
+ Thang đo nlpl của cá nhân theo khả năng hành vi của họ.
Phần 54: Cơ sở để tạo, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp lý
1. Luật và các quy định và các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
Luật là cơ sở mà quan hệ pháp luật tương ứng phát sinh, thay đổi và chấm dứt. Không có quan hệ pháp luật nào mà không có qppl.
Sự tồn tại của một chủ thể có năng lực chủ thể: năng lực pháp luật và năng lực hành động
2. Sự kiện pháp lý
Quan hệ pháp luật dân sự được tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt do những sự kiện – sự kiện pháp lý nhất định. Sự kiện pháp lý là sự kiện xảy ra trong thực tế, sự kiện mà pháp luật có thể thấy trước, điều chỉnh được và tạo ra hậu quả pháp lý (tạo ra, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự).
Phân loại các sự kiện pháp lý
+ Hành vi hợp pháp là hành vi có mục đích của chủ thể nhằm tạo ra hậu quả pháp lý. Đây là mặt bằng chung nhất về hậu quả pháp lý theo luật dân sự. Hành vi pháp lý được chia thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp;
+ Hành vi hợp pháp là hành vi cố ý của chủ thể phù hợp với pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội nhằm tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ. hệ thống pháp luật;
+ Hành vi trái pháp luật là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, các nguyên tắc pháp luật chung và đạo đức xã hội;
+ Các quyết định của cơ quan quốc gia dẫn đến hậu quả pháp lý cũng là hành vi hợp pháp. Ví dụ: quyết định giao đất, phân chia nhà, quyết định bồi thường thiệt hại của tòa án, quyết định xác định chủ sở hữu tài sản của tòa án, quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất …
3. Thủ tục pháp lý
Xử lý pháp lý là một hành vi không có ý định dẫn đến hậu quả pháp lý, nhưng theo yêu cầu của pháp luật, sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý. Ví dụ, người đào được tài sản có giá trị lớn, nếu không phải là đồ cổ thì được hưởng 50% giá trị.
4. Những thay đổi trong luật
Biến pháp luật là sự kiện xảy ra độc lập không phụ thuộc vào mong muốn của người bình thường, đặc biệt là những người tham gia vào các quan hệ dân sự. Các biến thể pháp lý được chia thành các biến thể pháp lý tuyệt đối và các biến thể pháp lý tương đối.
Biến tuyệt đối là những sự kiện xảy ra trong tự nhiên hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Ví dụ: động đất, núi lửa, bão, lũ lụt …
Biến tương đối là những sự kiện xảy ra do hành động của con người, nhưng độc lập với hành động của người tham gia và có hậu quả pháp lý đối với họ.
5. Thời hạn
Thời hạn là một sự kiện pháp lý đặc biệt tạo ra, làm thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của công dân. Thời gian là một phạm trù triết học không có đầu không cuối. Thời gian trôi đi không phụ thuộc vào ý chí của con người. Do đó, có hậu quả pháp lý trong một khoảng thời gian nhất định do pháp luật quy định.
Ví dụ: thời hiệu, thời hiệu quyền, thời hiệu thực hiện nghĩa vụ …
Phần 54: Bất hợp pháp: Các khái niệm và dấu hiệu cơ bản của bất hợp pháp, các yếu tố của bất hợp pháp
1. Khái niệm
Bất hợp pháp là hành vi gây tổn hại cho xã hội, vi phạm lợi ích được bảo vệ bởi ngành luật tương ứng hoặc vi phạm các quy định của ngành luật đó. Tuổi năng lực pháp luật và trách nhiệm pháp lý.
2. Các dấu hiệu vi phạm cơ bản
– Một là: vppl phải là hành vi khách quan, nguy hiểm cho xã hội, do con người thực hiện dưới hình thức hành vi hoặc thiếu sót (còn gọi là hành vi hoặc hành vi), a vi phạm những lợi ích (khách quan) này và gây ra (hoặc có thể gây ra) những hậu quả cụ thể có hại về lợi ích dân sự, xã hội hoặc lợi ích quốc gia.
(Chỉ những hành động mà con người thực hiện một cách có ý thức và có chủ đích trong thực tế khách quan mới được các nhà lập pháp coi là vppl).
Hai là : vppl phải là bất hợp pháp vì hành động (hoặc thiếu sót) của nó vi phạm các điều khoản liên quan do nhà lập pháp quy định trong văn bản (lợi ích được pháp luật bảo vệ). ) từng ngành luật cụ thể, tức là vi phạm điều cấm được quy định trong luật.
-Ba có : vppl phải là hành vi do người có năng lực pháp luật thực hiện
Người có năng lực tnpl là người ở trạng thái bình thường, có đủ năng lực để nhận thức đầy đủ thực tế và bản chất của tình huống khi thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật nghiêm cấm. Bản chất pháp lý của hành vi mà họ thực hiện và khả năng có toàn quyền kiểm soát hành vi đó.
– Bốn là: vppl phải chịu trách nhiệm về hành vi do người đủ tuổi hợp pháp thực hiện
Người đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý là người tại thời điểm phạm tội đã đủ tuổi theo quy định của cơ quan pháp luật có liên quan để hiểu đầy đủ bản chất thực tế và pháp lý của hành vi. Tôi cũng có thể kiểm soát hoàn toàn hành vi này.
-năm : vppl phải là một hành động có tính chất sai trái, tức là một hành vi phạm tội của một người có khả năng và độ tuổi tnpl bị phạm tội.
3. Các yếu tố cấu thành bất hợp pháp
-Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: là những dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật.
Bao gồm các yếu tố: hành vi trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện trái pháp luật, hành vi trái pháp luật.
—— Mặt khách quan của hành vi trái pháp luật: Là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích bất hợp pháp.
-chủ thể mời chào: là cá nhân, tổ chức có đủ năng lực pháp luật và có hành vi vi phạm pháp luật.
Đối tượng vi phạm: là một mối quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ khỏi sự lạm dụng vppl, nhưng bị vi phạm và gây ra bởi một hành vi bất hợp pháp (hoặc đe dọa thực sự gây ra) một số tổn hại đáng kể.
p>
Phần 55: Trách nhiệm: Khái niệm, Đặc điểm cơ bản, Phân loại các loại trách nhiệm. Khái niệm cơ bản về trách nhiệm
= & gt; Ba hình thức này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau và đều nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị (trong xã hội hiện đại là lợi ích của toàn thể nhân dân lao động) .
b) Phương thức thực thi chức năng trạng thái:
Có hai phương pháp thực hiện chức năng nhà nước: giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Việc nhà nước thông qua hình thức nào phụ thuộc vào bản chất của nhà nước, cơ sở kinh tế – xã hội, mâu thuẫn giai cấp, quan hệ quyền lực …
2. Liên quan đến Chức năng Nhà nước CHXHCN Việt Nam
– Chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những thay đổi lớn về nội dung, hình thức và tổ chức thực hiện, đưa đất nước thích ứng với tình hình mới và phát triển năng động, sáng tạo. Ví dụ, nếu trước đây chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước là tập trung quan liêu, bao cấp thì nay với chức năng này, nhà nước quản lý có hiệu quả các thành phần của nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
– Chức năng ngoại giao: Quốc gia cũng thực hiện chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá với các nước trên thế giới.
Trình bày một số nhiệm vụ cơ bản trong chức năng xã hội của quốc gia chúng ta
Mục 14: Chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: khái niệm, phân loại, so sánh với chức năng của Nhà nước trong thời kỳ hành chính, trong đó nhấn mạnh đến các cấp trước đây.
1. Chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay (liên quan đến câu 13)
2. So với chức năng nhà nước trong thời đại quan liêu, bao cấp
a) Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp.
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu thông qua các mệnh lệnh hành pháp, dựa trên một hệ thống quy định chi tiêu chi tiết từ đầu đến cuối. Doanh nghiệp hoạt động theo quyết định và nghị định chỉ định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mọi phương hướng sản xuất, nguồn nguyên liệu, kinh phí, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương … đều do cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước ban hành mục tiêu kế hoạch, cấp kinh phí và vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan quản lý can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không chịu trách nhiệm chính trong việc ra quyết định của doanh nghiệp. Những tổn thất về vật chất do ra quyết định không đúng phải do ngân sách quốc gia gánh chịu.
Hệ quả của hai điểm trên là cơ quan quản lý nhà nước thay thế chức năng sản xuất, điều hành và quản lý của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ bị gông cùm vì không có quyền tự chủ mà còn ỷ lại cấp trên vì không chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị bỏ qua, chỉ quan hệ hình thức, quan hệ vật chất là chính. Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống “phân phối – bàn giao”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Thứ tư, cơ cấu bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, thiếu chủ động, dẫn đến đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách chuyên quyền, quan liêu.
Trợ cấp chủ yếu dưới các hình thức sau:
+ Bao cấp: Giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hoá do nhà nước định giá thấp hơn giá trị thị trường nhiều lần so với giá trị thực tế của chúng. Đối với một mức giá thấp như vậy, một phần của đó là một món quà. Vì vậy, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
+ Bao cấp niêm phong (lương hiện vật): Nhà nước quy định cách cấp phát vật phẩm tiêu hao cho cán bộ, công nhân viên, người lao động theo định mức dưới hình thức con dấu. Chế độ thuế tem phiếu, khác xa với giá thị trường, đã biến hệ thống tiền lương thành tiền lương vật chất, loại bỏ động cơ khuyến khích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo công việc.
+ Trợ cấp được thực hiện thông qua hệ thống phân bổ quỹ ngân sách, nhưng không có cơ chế hạn chế trách nhiệm vật chất của các đơn vị được bao cấp. Điều này vừa làm tăng gánh nặng ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng kinh phí không hiệu quả, làm nảy sinh cơ chế “xin cho”.
Trong giai đoạn nền kinh tế còn bị chi phối bởi tăng trưởng theo chiều rộng, cơ chế này có tác dụng nhất định, nó có thể tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chính trong những thời kỳ và điều kiện khác nhau. Đặc biệt, trong quá trình công nghiệp hóa, công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển. Nhưng nó làm xói mòn cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ công nghệ, làm suy giảm động lực kinh tế của người lao động, không khơi dậy được sức sống và sức sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu trên cơ sở sử dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cơ chế quản lý này càng bộc lộ những bất cập của nó. , rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận cơ chế sản xuất và thị trường hàng hóa nên chúng ta cho rằng kế hoạch hóa là đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và mọi nguồn lực đều được phân bổ theo kế hoạch; thị trường được coi là công cụ phụ trợ để bổ sung quy hoạch. Không thừa nhận rằng thực sự có nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ mà kinh tế nhà nước và tập thể là trụ cột, cần nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân cá thể; hình thành nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
b) Các cơ chế quản lý kinh tế cần được cập nhật.
Trước sức ép của hoàn cảnh khách quan, để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, nền kinh tế thị trường chúng ta đã có một số cải tiến nhưng vẫn chưa đủ toàn diện và chưa triệt để. Đây là hợp đồng bao tiêu nông sản theo Chỉ thị 100 – ct / tw lần thứ 4 của Ban Bí thư Trung ương; bù lương dài hạn; Nghị quyết số 5 (năm 1985) về Giá-Tiền lương; Thực hiện Nghị định số 25 và Nghị định 26 – the Chính phủ … Tuy nhiên, đây là những cơ sở thực tế cho quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế của đảng.
Khi đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI đã chỉ rõ: “Việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải được thực hiện đồng thời với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý tập trung. Cơ chế quan liêu, bao cấp không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu xã hội Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sự phát triển kinh tế và sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả, gây lúng túng trong phân phối và phân phối, gây ra nhiều hiện tượng không mong muốn trong xã hội ”. Vì vậy, việc cập nhật cơ chế quản lý kinh tế trở thành một nhu cầu cấp thiết.
Mục 15: Chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, chức năng kinh tế của đất nước có những điểm khác nhau nhất định, nhưng nó luôn là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chức năng kinh tế của nhà nước Việt Nam chủ yếu bao gồm các nội dung sau: Tổ chức nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội.
– Phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lực lượng lao động phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
——Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần do kinh tế quốc doanh làm chủ đạo; phát triển đa dạng các hình thức hợp tác với hợp tác xã làm nòng cốt của kinh tế tập thể; tạo môi trường kinh doanh để phát triển kinh tế cá thể, nhỏ lẻ. kinh tế nông dân và kinh tế tư bản tư nhân; Sự phát triển đa dạng của kinh tế tư bản nhà nước; tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển.
– Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các thị trường xã hội chủ nghĩa, đồng thời hình thành cơ chế quản lý của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
– Tiếp tục đổi mới công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quốc gia.
Mục 16: Chức năng xã hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Chức năng xã hội của nhà nước: Tổ chức, quản lý văn hóa, khoa học, công nghệ và giải quyết các vấn đề chính sách xã hội. Bao gồm các mục tiêu cơ bản sau:
– Lấy giáo dục và đào tạo, coi khoa học và công nghệ là quốc sách cao nhất, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước coi trọng phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, ươm mầm nhân tài, ươm mầm tài năng. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học và công nghệ quốc gia, xây dựng cơ sở khoa học và công nghệ tiên tiến, đồng thời phát triển các ngành khoa học.
– Tạo cơ hội việc làm và quan tâm cải thiện điều kiện làm việc của nhân viên. Cải cách chế độ đãi ngộ công chức, bảo đảm doanh nghiệp trả lương, thưởng cho doanh nghiệp tư nhân trên cơ sở năng suất lao động của doanh nghiệp và hiệu quả của doanh nghiệp. –
Thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo; thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cho mọi thành viên trong cộng đồng; thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công, chính sách trợ giúp xã hội đối với người gặp rủi ro, không may mắn; thực hiện đồng thời công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. và các chính sách thân thiện với trẻ em. – Riêng tư
Hướng từ đất nước là ý tưởng xây dựng một nền văn hóa mới, một con người mới và một lối sống mới. Nhà nước bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam; kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa bản chất con người; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
Phần 17: Bộ máy Nhà nước
1. Khái niệm:
Thiết chế nhà nước là hệ thống thiết chế nhà nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức theo những nguyên tắc chung, thống nhất để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
2. Phân loại các cơ quan nhà nước:
-Dựa trên hình thức thực thi quyền lực:
+ Cơ quan Quốc gia
+ Cơ quan quản lý nhà nước
+ Tư pháp
– Đặt hàng dựa trên bản dựng:
+ Cơ quan chính phủ được bầu (được bầu)
+ Không phải là cơ quan do nhân dân bầu ra
dựa trên xếp hạng có thẩm quyền
+ Quyền hạn chung
+ Cơ quan chuyên môn
– Dựa trên cấp độ quyền:
+ Các cơ quan chính phủ trung ương
+ Cơ quan chính quyền địa phương
* Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước do nô lệ làm chủ
– Đặc điểm: Sự khác biệt giữa Đông và Tây, cụ thể:
+ Ở phương Đông: Hình thức quân chủ tập trung phổ biến. Bộ máy nhà nước còn sơ khai và đơn giản, có tính văn minh cao, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo.
+ Ở phương Tây: Các hình thức nhà nước đa dạng hơn phương Đông, hoạt động của nhà nước ngày càng chuyên biệt hơn. Cơ quan tư pháp độc lập với hành pháp.
Bộ máy nhà nước phong kiến
– Đặc điểm: Tính cách quân tử nặng nề gắn liền với chế độ đẳng cấp phong kiến. Các cơ quan thực thi pháp luật (chẳng hạn như quân đội, nhà tù, v.v.) là chủ thể.
– Cấu trúc trạng thái bao gồm:
+ Quân chủ: Là địa vị cao nhất trong bộ máy nhà nước với quyền lực vô hạn.
+ Viện trợ Trung ương. Cơ quan địa phương và hệ thống chính thức.
Bộ máy Nhà nước Tư sản:
– Đặc điểm: Được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền, thành lập từng phần. Ba nguyên tắc lập pháp, hành chính và tự quản là hạn chế lẫn nhau và hạn chế lẫn nhau. Chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân.
– Cấu trúc bao gồm:
+ Nguyên thủ quốc gia (Phủ tổng thống): Được thành lập bằng bầu cử nghị viện (cộng hoà đại diện), bầu cử đại cử tri (cộng hoà tổng thống), bầu cử đại cử tri (cộng hoà).
+ Nghị viện: Là cơ quan đại diện của quyền lực cao nhất và có thể thực hiện hiến pháp và các đạo luật. Có thể có 1 hoặc 2 viện.
+ Chính phủ: Có thể do nghị viện bầu ra và chịu trách nhiệm giải trình (ở các nước cộng hòa nghị viện và hỗn hợp), hoặc do tổng thống thành lập và chịu trách nhiệm (ở các nước cộng hòa đại nghị và hỗn hợp). Cộng hòa Tổng thống)
+ Hệ thống Tòa án
Máy trạng thái xhcn:
– Đặc điểm: Bộ máy nhà nước được tổ chức theo kinh tế chính trị và bản chất của nhà nước.
– Cấu trúc bao gồm:
+ Cơ quan nhà nước
+ Chủ tịch
+ Cơ quan quản lý nhà nước
+ Tư pháp
+ Cơ quan quản lý
Mục 18 + 19 + 20 + 21: Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Khái niệm :
Cơ quan nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những trình tự, thủ tục nhất định do hiến pháp và pháp luật quy định. Họ có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau, có chức năng, quyền hạn tương ứng do hiến pháp và pháp luật quy định để tham gia thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của nhà nước.
2. Phân loại các cơ quan nhà nước:
– Cơ quan nhà nước:
+ Quốc hội: Là cơ quan đại biểu, quyền lực cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.
+ UBND (hĐnd): Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do địa phương trực tiếp bầu ra.
– Chủ tịch nước: là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho đất nước về đối nội và đối ngoại, là đại biểu Quốc hội.
– Cơ quan quản lý quốc gia:
+ Chính phủ: Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
+ Ủy ban nhân dân: Do Quốc hội bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân các cơ quan nhà nước cùng cấp trở lên.
– Cơ quan tư pháp: bao gồm toà án nhân dân, toà án quân sự và các toà án khác do luật định.
– Cơ quan kiểm sát: bao gồm cả viện kiểm sát nhân dân và viện kiểm sát quân đội.
3. Các nguyên tắc cơ bản của Tổ chức và Hoạt động của Bộ máy Nhà nước
a) Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tổ chức bộ máy nhà nước và tham gia quản lý nhà nước:
Sức mạnh của nhân dân đến từ lý thuyết khế ước xã hội, chủ nghĩa Mác. Giai cấp tư sản đưa lý luận về quyền lực nhân dân vào thực tiễn, được các nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận, khẳng định và tiếp tục phát triển
Nội dung:
-Người dân có quyền thành lập bmnn thông qua bầu cử và các hình thức khác
Hiện trạng: Cuộc bầu cử vẫn còn mang tính hình thức, làm thế nào để bỏ phiếu có thể đảm bảo rằng sự lựa chọn của người dân có thể phản ánh đúng ý chí và hiệu quả của chính họ
-Nhân dân có quyền giám sát các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật
-Người dân có quyền tự ứng cử tham gia bmnn, trở thành công chức nhà nước, vận hành bộ máy nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước và đại diện cho ý chí, nguyện vọng của người khác.
– / p>
– Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến và quyết định về các vấn đề quốc gia
Tình trạng: Hiến pháp có quy định, nhưng không có luật và không thể thực hiện.
-Mọi người có quyền sa thải những người đại diện mà họ không còn tin tưởng nữa
Thực tế: Quyền này hiếm khi được thực thi và không được thực thi rộng rãi.
= & gt; Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nguyên tắc quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thể hiện cội nguồn của quyền lực, phát huy nhân dân làm chủ đất nước, thể hiện rõ nét nhất sự tiến bộ và văn minh của xã hội, cũng như các nguyên tắc khác (vì thừa nhận quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sau đó là Đảng, Nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền, v.v.)
b) . Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo đất nước thực hiện nhiệm vụ chiến lược lâu dài là xây dựng đất nước và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân giàu, xã hội”. Thứ hai, vai trò lãnh đạo đất nước của đảng trước hết thể hiện ở bản lĩnh chính trị của đảng, ở bản lĩnh chính trị của đảng, của đảng về chính trị và thông qua tuyên truyền thuyết phục, làm cho xã hội có ý thức và tự giác chấp nhận, khả năng không ỷ lại. , lệnh.
Tất nhiên, để thích ứng với tình hình mới của công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tự sửa, tự đổi mới về mọi mặt, trong đó có vấn đề về tổ chức, cơ cấu, đội ngũ, v.v. .
c) Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Theo Hiến pháp năm 1992 (cũng như các bản Hiến pháp 1980 và 1959), bộ máy nhà nước ta bao gồm ba thiết chế thực hiện ba chức năng riêng biệt: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án thực hiện quyền tư pháp. . Các thiết chế này hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, được quy định trong hiến pháp.
Nguyên tắc dân chủ chuyên chế thực chất là sự kết hợp hài hòa giữa phương hướng tập trung hóa ở cấp trên với phát huy dân chủ và tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới. Nguyên tắc này đòi hỏi một hệ thống thông tin, báo cáo và trách nhiệm giải trình rõ ràng giữa cấp trên và cấp dưới; kiên quyết phản đối cơ chế tập trung quan liêu và chế độ vô chính phủ tự do.
d) Nguyên tắc của luật:
Các điều kiện để nhà nước tổ chức và hoạt động nhằm bảo đảm pháp quyền.
Đầu tiên, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời và có hệ thống. Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất với nhau, là sự thống nhất giữa chủ thể và phương tiện. Để đất nước hoạt động đúng chức năng và bảo đảm pháp quyền, các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật (văn bản dưới luật) phải kịp thời và đồng bộ.
Thứ hai, các yêu cầu của nhà nước pháp quyền đòi hỏi các thể chế nhà nước phải được thành lập và hoạt động trong khuôn khổ pháp lý xác định chúng về địa vị pháp lý, quy mô và thẩm quyền.
Thứ ba, tôn trọng hiến pháp và luật pháp của các tổ chức nhà nước. Đây là sự tôn trọng pháp quyền, đồng thời phản ánh bản chất dân chủ của đất nước.
Mục 20: Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, phân phối, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau của các thiết chế nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Người Pháp.
– Quyền lực nhà nước là nguyên tắc thống nhất, phân phối, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau của các thiết chế nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. là nguyên tắc cốt lõi của HP Việt Nam
– Quyền lực nhà nước có nghĩa là thống nhất và tập trung ở nghị viện
– Tách các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp
– Trong tổ chức và hoạt động của các thể chế, việc phân phối, phối hợp và kiểm soát luôn được đặt trên nguyên tắc quyền lực thống nhất được quy định trong Hiến pháp năm 2013, do đó ít nhiều khác biệt với các ràng buộc và kiểm tra, cân đối. Nguyên tắc tam quyền phân lập trong học thuyết “tam quyền phân lập” của các học giả tư sản.
– Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện đồng thời với nguyên tắc phối hợp của các thiết chế nhà nước (hành pháp, lập pháp, tư pháp) trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn nguyên tắc phân phối quyền phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước.
Mục 21: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
– Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo, tập trung lãnh đạo, thống nhất của cấp trên và mở rộng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. dân tộc.
– Nguyên tắc này được áp dụng trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước xuất phát từ nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”. Lê-nin nhấn mạnh: “Nguyên tắc tập trung dân chủ theo nghĩa chung nhất là hiểu nguyên tắc tập trung là dân chủ đúng nghĩa”.
– Ở Việt Nam, nguyên tắc này được thể hiện rõ nhất tại Điều 27 Hiến pháp 2013 về chế độ bầu cử: “Công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, công dân từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử. . Nghị viện, Hội đồng. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định ”. Nguyên tắc này đảm bảo tính công khai, dân chủ và sự tham gia rộng rãi của mọi thành phần nhân dân.
– Trong Hiến pháp của Đảng Cộng sản cũng đã ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ”
Phần 22: Tổng quan về lịch sử trí tuệ, Học thuyết pháp quyền
1. Định nghĩa :
Quốc gia theo pháp quyền là một hình thức tổ chức quốc gia có sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cùng cơ chế kiểm soát. Trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật, khách quan, nhân đạo, công bằng, mọi việc đều vì lợi ích hợp pháp của nhân dân.
2. Tổng quan lịch sử ………… ..
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích lũy và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
1. Tư tưởng cổ xưa về pháp quyền
Tuy cách thể hiện và mức độ thể hiện khác nhau, nhưng có thể nói, tư tưởng chính trị và pháp luật thời Trung cổ ở cả phương Đông và phương Tây đều chứa đựng những yếu tố của nhà nước pháp quyền. Sự hình thành khái niệm nhà nước pháp quyền có liên quan đến việc khẳng định chủ quyền của nhân dân, phát triển dân chủ, chống lại chế độ chuyên quyền, vô chính phủ, vô pháp luật của những người cầm quyền. luật pháp và xã hội.
Ví dụ:
+ socrat (469 – 399 TCN) cho rằng tuân theo và tôn trọng luật pháp là tôn trọng lý trí, công lý và trí tuệ của quần chúng, nếu không quyền lực sẽ đi chệch hướng.
Xem Thêm : HSE là gì? Tất tần tật về HSE tại doanh nghiệp
+ law aton (427 – 347 bc) Khái niệm rằng một nhà nước chỉ có thể tồn tại nếu những người cai trị của nó tuyệt đối tuân theo luật pháp. Ông nói: “Chúng ta đang nhìn thấy sự kết thúc của một quốc gia mà luật pháp không có quyền lực và nằm dưới quyền của một ai đó.
+ Aristotle (384-322 TCN) nhấn mạnh rằng luật pháp phải là trên hết. Từ đó, ông coi nhà nước thực sự, thuần túy hay nguyên thủy, nơi những người cai trị dựa trên luật pháp và vì lợi ích công cộng, và những người cai trị chỉ dựa trên ý chí cá nhân chứ không dựa trên cơ sở của luật pháp mà chỉ vì lợi ích của họ. nhà nước cầm quyền là một nhà nước tham nhũng hoặc lệch lạc.
+ Ở Trung Quốc cổ đại và trung đại, mặc dù có nhiều hạn chế lịch sử trong các lý thuyết chính trị và pháp luật điển hình như đức trị và pháp quyền, chúng cũng chứa đựng những yếu tố của một quốc gia được quản lý bởi nhà nước pháp quyền, được phản ánh trong tác phẩm của các nhà tư tưởng lớn như Khổng Tử, Mạnh Tử, đồ hình Hán Tử, Tấn Tử …
+ Han Pitu (Tư tưởng chính trị pháp quyền) chủ trương pháp quyền là phương thức cai trị đúng đắn duy nhất, pháp luật phải công bằng, phải có sự thay đổi và phát triển. Thực tế khách quan, mọi người, kể cả vua chúa, quan lại và thần dân đều phải tôn trọng và tuân theo pháp luật.
2. Lý thuyết pháp quyền tư sản
Tư tưởng về đất nước pháp quyền thời cổ đại đã được các nhà tư tưởng tư sản tiếp thu và phát triển trong điều kiện mới, thể hiện một thế giới quan pháp luật mới. Nội dung chủ yếu của lý luận nhà nước pháp quyền tư sản là phản đối chế độ phong kiến chuyên quyền, vô pháp, dã man, ra sức thiết lập hệ thống nhà nước dựa trên pháp quyền và tuân theo pháp luật. Luật bảo đảm tự do, bình đẳng và nhân văn.
+ jon locke – nhà tư tưởng người Anh tk xvii, luật pháp phải phù hợp với luật tự nhiên, ông đã nêu ra nguyên tắc: làm những gì luật chỉ cho phép đối với những người có quyền, nhưng đối với công dân: làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. Quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên minh, trong đó quyền lập pháp phải là tối thượng.
+ Montesquieu (nhà tư tưởng lớn người Pháp) đã thành lập học thuyết tam quyền phân lập trong nước với cuốn sách nổi tiếng “Tinh thần pháp luật”. Theo ông, nhà nước có ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chia để trị và cân bằng ba quyền lực với nhau là điều kiện chính để bảo đảm quyền tự do của nhà nước và xã hội, chính trị.
+ Rousseau (Pháp) đã góp phần quan trọng trong việc nâng các tư tưởng về “nguồn gốc của quyền lực nhà nước” và “chủ quyền phổ biến” lên một tầm cao mới.
+ Cho đến tkxviii, Kant đã trình bày một luận điểm triết học về nhà nước pháp quyền, theo đó nhà nước là tập hợp những người tuân theo pháp luật, và pháp luật của nhà nước pháp quyền thì bản thân nhà nước phải tuân theo.
= & gt; Tóm lại, khái niệm nhà nước mang bản chất nhà nước pháp quyền đã được hình thành và tồn tại từ xa xưa trong lịch sử, thể hiện lòng khao khát của nhân dân đối với nhà nước, hệ thống xã hội lý tưởng và khả năng đảm một cuộc sống tự do. , đặc biệt là quyền tự do chính trị của mọi người.
Tiết 23: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và kế thừa các giá trị, vận dụng vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
– Trong di sản tư tưởng cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một bộ phận cơ bản là hệ tư tưởng về nhà nước và pháp luật. Tư duy của ông chứa đựng nhiều yếu tố về nhà nước pháp quyền, đặc biệt là tư tưởng về quyền con người, một nhà nước mạnh và hiệu quả, mối quan hệ giữa luật pháp và đạo đức: tự do, dân chủ và pháp quyền. Luật pháp: Quyền con người và quyền quốc gia …
-Tư tưởng quản lý xã hội theo pháp luật của nhân dân được hình thành từ rất sớm, trong “Bảy yêu cầu / Pepsi” về việc ban hành hiến pháp do nhân dân Annan đề xuất với Hội nghị Versailles năm 1919. pháp quyền ”.
– Ý tưởng của ông được hiện thực hóa trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam mới.
-Trong quá trình xây dựng đất nước pháp quyền của nhân dân Việt Nam, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được kế thừa và áp dụng. Trong văn kiện của đảng: “Nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện chủ quyền của nhân dân là nước, nước do nhân dân cai trị, nước do nhân dân làm chủ, nước do nhân dân cai trị. nhà nước thống nhất nhưng trong việc thực hiện quyền lập pháp và hành pháp, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện công tác quản lý tư pháp và nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật. ”
Tiết 24: Các khái niệm và đặc điểm (nguyên tắc) cơ bản của nhà nước pháp quyền. Nội dung liên quan đến việc thể hiện các đặc trưng (nguyên tắc) cơ bản của điều hành đất nước bằng pháp luật trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013
1. Khái niệm về quốc gia pháp quyền
Quốc gia theo pháp quyền là một hình thức tổ chức quốc gia có sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cùng cơ chế kiểm soát. Trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật, khách quan, nhân đạo, công bằng, mọi việc đều vì lợi ích hợp pháp của nhân dân.
2. Các đặc điểm cơ bản của một quốc gia được cai trị bởi luật pháp
– Quốc gia pháp quyền là quốc gia có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất và chặt chẽ, dựa trên nền tảng đạo đức xã hội nhân văn và đạo đức tiến bộ, thực hiện quản lý xã hội theo quy định của pháp luật.
– Ở đất nước pháp quyền, pháp luật chiếm vị trí tối cao trong đời sống quốc gia và đời sống xã hội; pháp luật phải khách quan, nhân đạo, công bằng, phù hợp với đạo đức xã hội và vì lợi ích hợp pháp của Mọi người.
– Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân là ngang nhau và cùng chịu trách nhiệm. Tuân theo pháp luật là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức kể cả nhà nước và nhà nước có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cá nhân do những quyết định và hành động sai trái gây ra. TÔI.
– Quốc gia pháp quyền là quốc gia mà quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân được hệ thống pháp luật của quốc gia đó tôn trọng và thực thi. Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
-Một quốc gia theo nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở phân chia quyền lực quốc gia, sự phân định quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp rõ ràng, khoa học, quyền lực được kiểm soát, kiểm soát và giám sát bằng quyền lực. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và vận hành theo các cơ chế bảo đảm kiểm soát quyền lực nhà nước.
– Nhà nước pháp quyền tồn tại trong một xã hội dân sự lành mạnh, bảo đảm quyền tự do của cá nhân và tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
p>
– Nhà nước pháp quyền là quốc gia sống hòa nhập với cộng đồng quốc tế, thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế mà quốc gia đó đã ký kết hoặc công nhận.
3. Các nguyên tắc này được nêu trong Hiến pháp năm 2013 như sau:
Điều 2
1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa do pháp luật cai trị.
2. Một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng của nó là liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, các thiết chế nhà nước được phân bổ, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Điều 3
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu làm giàu cho nhân dân, củng cố đất nước, dân chủ, công bằng, văn minh, để mọi người đều được sống cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Điều 8
Nhà nước tổ chức và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội theo hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều 12
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển; trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và bình đẳng. và các bên cùng có lợi, cùng có lợi, các quan hệ đa phương, đa nguyên đã được hiện thực hóa. Hãy là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, nghĩ đến đất nước, dân tộc, vì hòa bình thế giới và độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. .
Điều 14
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về các mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật khi cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, v.v.
Phần 25: Các đặc điểm cơ bản của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
– Hệ thống pháp luật phải được hoàn thiện để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của quản lý xã hội theo quy định của pháp luật trên cơ sở đạo đức xã hội và đạo đức tiến bộ của con người.
– Phải thiết lập và có các cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật trong hệ thống các công cụ pháp luật.
– Pháp luật chiếm vị trí tối cao trong đời sống dân tộc và đời sống xã hội.
– Pháp luật phải luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Phần 26: Trách nhiệm và vai trò của Nhà nước đối với Quyền con người và Quyền công dân. Liên quan đến Hiến pháp 2013
– Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm cho mọi người có quyền và tự do bình đẳng trước pháp luật, có đầy đủ cơ hội hợp pháp để phát triển toàn diện cá nhân, để mỗi người phát huy hết khả năng của mình. Quyền tự do và quyền bình đẳng của công dân được ghi nhận trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Công bằng, bình đẳng của công dân trong một quốc gia có pháp quyền không chỉ được bảo đảm về mặt pháp luật mà còn trên thực tế, Nhà nước bảo đảm cho công dân có đủ điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để thực hiện nghĩa vụ và thực hiện các quyền của mình trên thực tế.
– Nhà nước cũng có nghĩa vụ bảo vệ quyền con người và quyền công dân
Nghĩa vụ tôn trọng : Nghĩa vụ này yêu cầu nhà nước không được can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp một cách tùy tiện vào các quyền con người và dân sự mà các chủ thể quyền được hưởng. Đây được coi là một nghĩa vụ thụ động vì nó không đòi hỏi Nhà nước phải chủ động đưa ra các sáng kiến, biện pháp hoặc chương trình để bảo vệ hoặc hỗ trợ các chủ thể quyền trong việc thụ hưởng các quyền của họ.
Nghĩa vụ bảo vệ : Nghĩa vụ này yêu cầu nhà nước ngăn chặn các hành vi vi phạm nhân quyền và dân quyền của mọi đối tượng, kể cả các cơ quan nhà nước và nhân viên. Đây được coi là một nghĩa vụ tích cực, vì để đạt được điều này, nhà nước phải chủ động từng bước và thiết lập cơ chế để ngăn chặn và giải quyết vi phạm …
Thực hiện nghĩa vụ : Nghĩa vụ này yêu cầu nhà nước thực hiện các bước để hỗ trợ các chủ thể quyền trong việc thụ hưởng các quyền con người và dân sự. Đây được coi là một nghĩa vụ chủ động vì nó đòi hỏi các bang phải xây dựng các kế hoạch và chương trình cụ thể để đảm bảo rằng trẻ em được hưởng các quyền của mình một cách đầy đủ nhất có thể.
* Hiến pháp là công cụ pháp lý cơ bản bảo vệ các quyền con người và công dân của các quốc gia. Theo hiến pháp sửa đổi năm 2013, trách nhiệm và vai trò của nhà nước đối với quyền con người và quyền công dân như sau:
Điều 14
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về các mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật khi cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, v.v.
* Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một số quyền mới , bao gồm: quyền sống; quyền văn hóa; quyền xác định chủng tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; công dân không bị trục xuất, không bàn giao cho Quyền của các nước khác … là chặt chẽ, chính xác, khả thi và phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền con người mà nước mình tham gia.
* Cũng là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, hiến pháp quy định trực tiếp trách nhiệm của chính phủ, tand, vksnd trong việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân – một nghĩa vụ hiến định.
+ Điều 96 (6) (Chính phủ): bảo vệ quyền của nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an ninh xã hội;
+ Điều 102 Khoản 3 (Tòa án nhân dân): Tòa án nhân dân có quyền hợp pháp bảo vệ công lý quốc gia, quyền con người, quyền công dân, hệ thống xã hội chủ nghĩa và lợi ích của tổ chức, cá nhân.
+ Điều 107 Khoản 3 (Viện kiểm sát): Viện kiểm sát nhân dân có nghĩa vụ thượng tôn pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia và quyền, lợi ích hợp pháp. Các tổ chức và cá nhân giúp đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt và thống nhất các quy định của pháp luật.
Phần 27: Hệ thống chính trị ở Việt Nam: Khái niệm, vị trí và vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam
1. Khái niệm:
– Hệ thống chính trị là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các thể chế chính trị có địa vị, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình tham gia thực hiện quyền lực chính trị. . hiệp hội.
– Hệ thống chính trị của Việt Nam ra đời sau thế kỷ thứ 8, với sự hình thành nền dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Dưới góc độ điều kiện quốc gia, hệ thống chính trị của Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Nhất nguyên chính trị, chỉ có một Đảng cộng sản lãnh đạo, với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tính công dân sâu sắc: Mọi thể chế đều gắn với một tầng lớp nhân dân nhất định, lấy nhân dân làm mục đích, trở thành nguồn sức mạnh của nhân dân.
+ Cơ cấu tổ chức khoa học, chặt chẽ, phân chia vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức.
+ Hệ thống chính trị được tổ chức rộng rãi hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Sự thống nhất của mục tiêu hoạt động cơ bản là phục vụ lợi ích của nhân dân và đất nước.
+ Thành viên của hệ thống chính trị do Đảng cộng sản thành lập.
2. Vị thế và vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước giữ vai trò trung tâm, lãnh đạo quản lý xã hội. Sở dĩ như vậy là do nhà nước có hai lợi thế đặc biệt quan trọng so với các tổ chức thành viên khác trong hệ thống chính trị:
Thứ nhất, nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức chính trị mang quyền lực của nhân dân, thể hiện ý chí và lợi ích của nhân dân một cách tập trung và đầy đủ nhất.
Hai là, nhà nước là công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân.
* Hai lợi thế này đến từ cơ sở và điều kiện của các quốc gia sau:
+ Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, là cơ sở xã hội rộng rãi để thực hiện chính sách và pháp luật của nhà nước. Nhà nước có một hệ thống rất lớn các cơ quan đại diện từ trung ương đến địa phương, do nhân dân bầu ra nên quyết định các thiết chế còn lại của nhà nước.
+ Nhà nước là cơ quan chủ yếu của quyền lực chính trị, công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực của nhân dân, có cơ quan quản lý xã hội và thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết.
+ Nhà nước quản lý xã hội thông qua pháp luật, hệ thống pháp luật, đường lối của Đảng, chính sách và đường lối quốc gia, kết hợp với các phương tiện khác để điều tiết xã hội, đặc biệt là đạo đức.
+ Đối nội của đất nước là tối cao, đối ngoại là độc lập
+ Nhà nước là người sở hữu tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Nhà nước có nền tảng vật chất và tài chính to lớn, đảm bảo thực hiện các chức năng của nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội.
= & gt; Tất cả những điều kiện, cơ sở nêu trên thể hiện lợi thế, thế mạnh, vai trò của đất nước, đồng thời khẳng định vị thế đặc biệt của đất nước trong hệ thống chính trị Việt Nam: đất nước là trung tâm, là trụ cột, là công cụ đắc lực để hệ thống chính.
=> / p>
Phần 2: Lý luận pháp lý
Phần 28: Lịch sử hình thành pháp lý
-Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đó là một tất yếu khách quan. Theo quan điểm chủ quan, pháp luật do nhà nước xây dựng và bảo đảm thực hiện đã trở thành công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, đồng thời nó quy định việc quản lý xã hội theo mục đích của nhà nước. Nhà nước cũng là mục tiêu phấn đấu của giai cấp thống trị.
– Trước khi pháp luật ra đời, các tổ chức thị tộc và bộ lạc điều hành xã hội bằng phong tục tập quán, thực chất là nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Khi nhà nước ra đời và các quan hệ xã hội phát triển vượt bậc cả về chiều rộng lẫn chiều sâu thì những phong tục này không thể điều chỉnh được nữa mà cần phải có một chuẩn mực xã hội mới. Đó là luật.
Phần 29: Tổng quan về Trường phái khái niệm pháp lý
1. Ý kiến pháp lý của Trường Luật Tự nhiên
– Có hai loại luật: luật tự nhiên và luật nhà nước
= & gt; law = luật tự nhiên + luật tiểu bang
– Thay mặt các đại diện: grotius, thomas hobbes, Monstesquieu, hegal …
2. Các khái niệm pháp lý của Trường Luật Tích cực
– Luật pháp bắt nguồn từ các quốc gia và từ các quốc gia. Luật pháp phải do con người làm ra. Pháp luật chỉ là những nguyên tắc ràng buộc do nhà nước thực hiện, thừa nhận trái đạo lý, công lý không làm mất hiệu lực của pháp luật.
– Luật pháp là một hệ thống tiêu chuẩn có thứ bậc.
3. Các khái niệm pháp lý trong lý thuyết xã hội học về luật
– Pháp luật không có bản chất vốn có, cũng không được gói gọn trong các văn bản quy phạm pháp luật xuất phát từ chính cuộc sống. Luật pháp không được đặt thành đá, mà thay đổi theo xã hội, trước đây là trừng phạt, bây giờ là đền bù và hài hòa xã hội, thiết kế xã hội.
– Pháp luật là một công cụ để giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao lên một tiêu chuẩn chung
-Pháp luật có chức năng tạo sự đồng thuận xã hội (vì trong xã hội luôn tồn tại những mâu thuẫn và xung đột lợi ích)
– Cuộc sống là nguồn gốc thực sự của luật pháp, nếu luật pháp không xuất phát từ cuộc sống thì nó sẽ “chết”
– Trường này đánh giá cao vai trò của các thẩm phán trong việc đưa ra luật
4. Luật theo khái niệm tâm lý học pháp lý
-Những trái tim bắt nguồn từ hành vi tâm lý của con người và phải phù hợp với tình cảm đạo đức và pháp luật
-Tâm lý học-Quy luật cảm xúc của con người (cảm xúc đạo đức và cảm xúc pháp lý)
– Luật của đất nước: nếu phù hợp với cảm xúc của con người là luật (nói và thể hiện tiếng nói của mọi người)
5. Trường Luật Lịch sử
Theo quan điểm của thibaut về hệ thống hóa pháp luật của Đức => Sự ra đời của trường phái luật lịch sử
– Pháp luật bị ràng buộc bởi các điều kiện lịch sử, văn hóa và xã hội. Vì vậy, muốn hiểu luật người ta phải trải qua lịch sử, tức là phải hiểu luật trong một quá trình phát triển
– Quy luật xuất phát từ lịch sử (muốn tồn tại phải có yếu tố nội sinh, phù hợp với hoàn cảnh sống, thuần phong mỹ tục của dân tộc)
= & gt; Mỗi quốc gia và dân tộc có hình thức pháp lý riêng
6. Quan điểm của người theo chủ nghĩa xã hội về luật pháp
– Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước (giai cấp thống trị)
– Pháp luật là công cụ nhà nước quản lý xã hội. Luật do nhà nước ban hành hoặc công nhận và được bảo đảm bởi lực lượng cưỡng chế của nhà nước
– Quy luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng và chịu sự điều chỉnh của các điều kiện của cơ sở hạ tầng.
Phần 30: Bản chất, các thuộc tính cơ bản của pháp luật, So sánh với các loại quy phạm xã hội, các mối quan hệ thực tiễn
1. Bản chất của Luật:
– Danh mục:
– Kỹ năng xã hội :
– Quốc gia : Pháp luật được xây dựng trên cơ sở dân tộc, mang đậm tính dân tộc, phản ánh phong tục tập quán, đặc điểm lịch sử, điều kiện địa lý, nét đặc sắc, văn minh, văn hóa của dân tộc
– Tính cởi mở : Sẵn sàng chấp nhận những thành tựu của văn minh nhân loại và văn hóa pháp luật để làm giàu cho bản thân.
2. Các thuộc tính cơ bản của luật:
– Mức độ phổ biến
– Tính nghiêm minh về hình thức : Pháp luật có đặc điểm là nội dung pháp lý rõ ràng, chính xác thông qua các điều khoản, văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo xác định chặt chẽ hình thức pháp lý:
– Luật tiểu bang đảm bảo hiệu suất:
Các phương tiện nhà nước thực hiện pháp luật rất đa dạng: phương tiện hành chính, phương tiện kinh tế, phương tiện tổ chức tư tưởng, phương tiện tuyên truyền, phương tiện giáo dục pháp luật và biện pháp cưỡng chế. Sử dụng các biện pháp này, các biện pháp khác hoặc kết hợp các biện pháp dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Biện pháp cưỡng chế chỉ được sử dụng khi các biện pháp khác không có tác dụng.
– Có hệ thống, nhất quán, ổn định và năng động
li>
3. So sánh với các loại chuẩn mực xã hội khác:
– Bắt buộc đối với tất cả mọi người.
– Do nhà nước cưỡng chế.
– mang tính quy phạm, giới hạn và chủ thể buộc phải hành động trong giới hạn được pháp luật cho phép.
– Biểu thị thiện chí bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
– tùy chọn.
– Việc thực thi không được đảm bảo, nhưng mang tính tự nguyện và tự nguyện.
– Không có tính nhất quán, không rõ ràng, cụ thể về mặt pháp lý.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
– liên quan đến tiểu bang, được ban hành hoặc công nhận bởi tiểu bang.
– Mạnh mẽ, không xúc động, thể hiện sự ngăn cản.
– Cấu trúc gồm 3 phần: Giả định, Điều khoản, Chế tài.
– Do tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo xác định hoặc do chính tổ chức đó hình thành trong các mối quan hệ xã hội.
– là quy tắc ứng xử không bắt buộc, chỉ có giá trị đối với các thành viên của tổ chức.
Câu 31: Chức năng của pháp luật trong mối quan hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
1. Chức năng pháp lý: gồm 3 chức năng:
– Chức năng điều chỉnh của pháp luật: thể hiện vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác lập “trật tự” của các quan hệ xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo một hướng nhất định theo quy luật. Sự vận động khách quan của các quan hệ xã hội.
-Chức năng bảo vệ: là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Trong trường hợp có hành vi trái pháp luật hoặc hành vi xâm phạm đến mối quan hệ xã hội mà pháp luật đã quy định thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thực hiện các biện pháp bắt buộc do pháp luật quy định và có cơ sở xử phạt đối với người phạm tội. Những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của cá nhân thì bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự, nếu để xảy ra thiệt hại về tài sản thì bồi thường theo quy định của pháp luật về dân sự.
– Chức năng giáo dục của pháp luật: được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức của con người, để con người hành động phù hợp với các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên truyền vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể bằng cách xử lý những người vi phạm (phạt vi phạm giao thông, xét xử thủ phạm). tội hình sự …)
2. Liên hệ:
– Chức năng điều chỉnh của pháp luật: Phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng mở rộng. Trong thời kỳ đổi mới, đất nước ta đã thiết lập khuôn khổ pháp lý mới trên tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các nguyên tắc quản lý xã hội theo pháp luật và tăng cường nhà nước pháp quyền đã được thể hiện và thực hiện.
– Trong thời gian tới, công tác lập pháp cần tập trung vào các lĩnh vực quan trọng của quan hệ xã hội như: thiết lập khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc hình thành đồng thời thể chế thị trường, đơn giản hóa thủ tục hành chính: xóa bỏ cơ chế “xin cho” .. .
– Chức năng bảo vệ: Trong sự nghiệp trẻ hóa đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bảo vệ và bảo vệ quyền con người thông qua việc thực hiện hệ thống pháp luật và các cơ chế xã hội, luật pháp. Pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quy định pháp luật liên quan đến quyền khiếu nại và chỉ trích, quyền được học hành, học tập, hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, quyền tự do cá nhân: thư tín, điện thoại, chỗ ở, quyền bất khả xâm phạm bí mật đời tư .. .được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nước ta cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về hình thức, thủ tục và cơ chế thực hiện quyền con người.
– Chức năng giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay được thực hiện thông qua hoạt động áp dụng pháp luật thông qua nhiều hình thức và phương thức như công khai, tư vấn, trợ giúp pháp lý. Căn cứ vào trình độ, điều kiện và nhu cầu của đối tượng giáo dục mà thực hiện hình thức, phương pháp, nội dung giáo dục pháp luật. Tạo môi trường văn hóa pháp lý, các cơ quan công quyền và nhân viên của mình tuân thủ pháp luật và các quy định, bảo đảm tính đúng đắn của các quyết định áp dụng pháp luật.
Phần 32: Mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế, luật pháp và chính trị, so với hiện trạng ở Việt Nam
1. Quan hệ kinh tế – pháp luật
– Pháp luật là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng của xã hội, và kinh tế là một yếu tố của cơ sở hạ tầng.
– Pháp luật sinh ra trên cơ sở hạ tầng và bị ràng buộc bởi cơ sở hạ tầng pháp lý. Cơ sở hạ tầng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Về kinh tế, luật lệ thuộc vào nền kinh tế, mặt khác, luật có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
– Các quan hệ xã hội không chỉ là nguyên nhân trực tiếp của pháp luật mà còn là toàn bộ nội dung, hình thức, cấu trúc và sự phát triển của nó.
Sự phụ thuộc của pháp luật vào nền kinh tế chủ yếu thể hiện ở các khía cạnh sau:
Tác động tiêu cực của luật đối với nền kinh tế:
Khi pháp luật được thể hiện dưới góc độ kinh tế, pháp luật là hiện thân ý chí của giai cấp thống trị với tư cách là lực lượng tiến bộ xã hội, phản ánh trình độ kinh tế dẫn dắt sự phát triển kinh tế, pháp luật tạo hành lang tốt cho nền kinh tế. phát triển, xây dựng.
Ví dụ, khi pháp luật thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước thì tạo điều kiện giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội. Bang hội …
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế này sang cơ chế kinh tế khác, quan hệ kinh tế cũ chưa hoàn toàn biến mất, quan hệ kinh tế mới đang hình thành và phát triển nhưng chưa ổn định. Quy luật có thể kích thích sự phát triển của nền kinh tế về những mặt này, Nhưng kìm hãm sự phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế trên các lĩnh vực và khu vực khác.
Ví dụ, những quy luật của xã hội phong kiến trong thời kỳ lạc hậu sau này không phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp nước ta hiện nay.
2. Quan hệ Chính trị-Pháp lý
– Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị trong việc hình thành và tổ chức bộ máy nhà nước:
Khi hệ thống pháp luật của tổ chức không đầy đủ, đồng bộ, không phù hợp, không chính xác, không thể làm cơ sở cho việc thành lập và hoạt động của bộ máy nhà nước thì sẽ dễ dẫn đến sự trùng lặp, chồng chéo, không phù hợp chức năng của các tổ chức. trong bộ máy nhà nước. Ngoài ra, pháp luật xác định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong bộ máy nhà nước.
– Quan hệ chính trị, luật pháp trong quan hệ đối ngoại của các quốc gia:
– Luật pháp và chính sách của giai cấp thống trị:
Mục 33: Mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước, thực trạng ở Việt Nam
– Nhà nước và pháp luật luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nó được thể hiện ở sự tác động qua lại giữa nhà nước và pháp luật.
– Vừa phụ thuộc lẫn nhau, vừa độc lập tương đối, những đặc điểm này thể hiện trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và xây dựng, thi hành pháp luật: bộ máy nhà nước sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, nhưng pháp luật đòi hỏi bộ máy nhà nước phải bảo vệ và đảm bảo cho việc thực thi pháp luật.
– và sự tương tác của nhà nước và luật pháp, cả tích cực và tiêu cực, ở một mức độ nào đó. Ví dụ, nếu nhà nước không đáp ứng những yêu cầu tối thiểu của người dân thì sẽ có tác động tiêu cực đến đời sống pháp luật, như mất niềm tin vào pháp luật và người dân không còn tuân theo pháp luật nữa.
– Nhà nước và pháp luật đều có chung tiền đề xã hội để xuất hiện và phát triển. Nhà nước và pháp luật không thể độc lập với nhau, nhà nước không thể điều hành xã hội nếu không có pháp luật, và tương tự, pháp luật không thể hoạt động nếu không có sự bảo đảm của nhà nước.
= & gt; Đối với Việt Nam ngày nay, việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước phải đi đôi với hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật. Trong quản lý xã hội, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải coi pháp luật là vũ khí quan trọng nhất. Để các chính sách quốc gia được thực hiện thống nhất và đồng thời trên phạm vi cả nước, cần phải thông qua các thủ tục pháp lý hợp lý.
Mục 34: Mối quan hệ giữa luật và tục, luật và đạo đức; mối quan hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
– Mọi xã hội đều tồn tại dựa trên những quy tắc, luật lệ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bởi vì cả hai đều tham gia vào việc điều chỉnh hành vi của con người và các quan hệ xã hội, giữa pháp luật, phong tục, đạo đức luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng, tương đối độc lập, tác động lẫn nhau, vừa tích cực vừa tiêu cực.
-Ví dụ, theo phong tục cổ xưa, người phụ nữ sau khi kết hôn phải hoàn toàn dựa vào chồng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến luật hôn nhân và gia đình.
-Trong hệ thống điều tiết xã hội, pháp luật và đạo đức đóng vai trò trung tâm và có vị trí quan trọng nhất. Khi cần thiết, pháp luật phải có nghĩa vụ hỗ trợ và bảo vệ các chuẩn mực xã hội và lợi ích đạo đức theo phong tục tập quán.
= & gt; Đối với nước ta hiện nay, pháp luật ngày càng coi trọng và ghi nhận những tập quán, phong tục tốt thể hiện đạo đức dân tộc. Nhiều quy tắc đạo đức cho các mối quan hệ xã hội khác nhau cũng đã được hệ thống hóa. Thông qua các quy định cụ thể và có nguyên tắc, pháp luật cũng giúp loại bỏ các tập quán lạc hậu và không vi phạm.
1. Bản chất của pháp luật Việt Nam
Bản chất của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa là giai cấp, xã hội và con người. pl có vai trò chi phối điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng giá trị và chức năng của pháp luật chỉ có thể được bảo đảm và phát huy khi nó được kết hợp chặt chẽ với các phương tiện điều chỉnh xã hội khác. .
Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được nhà nước bảo đảm trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế, có tính bắt buộc chung, phản ánh ý chí và lợi ích của người lao động; thu hút toàn xã hội. Tham gia tích cực vào công tác pháp chế và Hội đồng lập pháp, điều chỉnh các quan hệ xã hội, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Vai trò của pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo vệ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nghiêm trị mọi hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. pl không chỉ quy định quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân mà còn quy định cơ chế pháp lý, quy phạm pháp luật và thủ tục thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của cd. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật quy định và bảo vệ trong mọi lĩnh vực của xã hội. Bộ máy nhà nước, trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước và thủ tục hành chính được đổi mới mạnh mẽ nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tiết 37: Nguyên tắc pháp luật Việt Nam: khái niệm, nội dung?
1. Khái niệm:
Các nguyên tắc pháp luật Việt Nam là tư tưởng chỉ đạo cơ bản, xuất phát điểm và phương hướng, tuân theo các quy luật khách quan của xã hội, xuyên suốt nội dung và hình thức của pháp luật. , toàn bộ thông lệ pháp lý, hợp đồng xdpl, áp dụng luật, hành động pháp lý, nhận thức pháp luật
2. Nội dung
-Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất tự nhiên của nước ta và đã được quán triệt trong pháp luật, trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật, là một nguyên tắc hiến định. Điều 2 của Hiến pháp 2013 nêu rõ:Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa nhân dân do pháp luật, nhân dân cai trị, vì nhân dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng là khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
Quyền lực của nhà nước là thống nhất và các thiết chế của nhà nước được phân bổ, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đòi hỏi pháp luật và hợp đồng tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật phải phản ánh toàn bộ quyền lực của nhân dân, nắm bắt tư tưởng của nhân dân với tư cách là cơ quan tối cao của quyền lực
p>
Trong những năm gần đây, nhân dân nước ta đã tham gia rà soát việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra, giám sát hợp đồng giữa nhà nước và xã hội, đặc biệt là hoạt động tư pháp.
-Principles of Democracy xhcn
Công nhận các quyền tự do, dân chủ của công dân và bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý đất nước và xã hội dưới hình thức pháp luật. Dân chủ thể hiện ở quyền và nghĩa vụ hợp pháp của cá nhân, tổ chức, phải được pháp luật thừa nhận và được nhà nước và xã hội thực hiện bằng những hình thức phù hợp. Luật xác định các hình thức thực hiện dân chủ: trực tiếp và gián tiếp (đại diện), những gì và cách thức thực hiện và cơ chế thực hiện các hình thức này. Xét trên quy mô toàn xã hội và quy mô cộng đồng dân cư, dân chủ chỉ có thể được thực hiện tốt nhất bằng một cuộc cải cách lớn của hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cấp cơ sở.
Nước ta đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ ở cơ sở, thường là Nghị định số 29 / cp ngày 11 tháng 5 năm 1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là dân chủ ở cơ sở) .
– Nguyên tắc Nhân đạo
Nguyên tắc này xuất phát từ sự tôn trọng, chăm sóc và bảo vệ con người – những giá trị cao nhất. Yếu tố con người, hệ thống các quyền và tự do của con người phải được điều chỉnh và cơ chế bằng pháp luật. Bảo đảm có hiệu quả các nguyên tắc thống nhất về quyền và nghĩa vụ, quyền tự do và trách nhiệm của con người, thúc đẩy nhiệt tình và tự do sáng tạo của con người. Các nguyên tắc nhân đạo thể hiện việc đối xử với người phạm tội. Vi phạm pháp luật không phải là xúc phạm thân thể và danh dự, nhân phẩm và nhân phẩm của con người cũng được thể hiện trong hệ thống các quy định được đưa ra theo hướng tốt nhất cho con người trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức.
Trong Bộ luật Hình sự năm 1999, có xu hướng giảm bớt các biện pháp xử lý hình sự vừa nghiêm khắc, vừa mang tính giáo dục, mở đường cho người phạm tội hoàn lương.
-Nguyên tắc thống nhất các quyền và nghĩa vụ pháp lý
Thể hiện nguyên tắc thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ: chủ thể pháp luật vừa có quyền vừa có nghĩa vụ pháp lý tương ứng, được khẳng định tại Điều 15 của Hiến pháp năm 2013
Quyền công dân không thể tách rời nghĩa vụ công dân.
Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.
Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình đối với đất nước và xã hội.
Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích quốc gia và quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Nguyên tắc này cũng nêu rõ mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân trong nhà nước pháp quyền. Giữa nhà nước và cá nhân có mối quan hệ bình đẳng.
-Nguyên tắc công bằng
Công nhận, bảo vệ và đảm bảo công lý là một trong những giá trị xã hội to lớn của pháp luật, đặc biệt là ở các quốc gia được cai trị bằng pháp luật
Nguyên tắc công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều khía cạnh, điển hình là: việc quy định và áp dụng các biện pháp xử lý phải phù hợp với tính chất và mức độ vi phạm, xác định mức hưởng tương xứng với đóng góp và cống hiến. của xã hội, công bằng có những đặc điểm riêng, như công bằng trong thụ hưởng các giá trị văn hóa, lao động, việc làm, chăm sóc y tế, giáo dục, v.v.
-Nguyên tắc “làm những gì pháp luật không cấm” vì người dân và “chỉ làm những gì được pháp luật cho phép” vì đất nước
Đây là hai nguyên tắc pháp quyền phổ biến được quan tâm đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và tiến trình dân chủ hóa.
Phần 38: Nhận thức pháp lý: Các khái niệm, cấu trúc (các cấp độ) của Nhận thức pháp luật, Tư duy pháp lý và Tâm lý pháp lý
1. Khái niệm
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội và là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa xã hội. Nhận thức pháp luật có thể được định nghĩa là tổng hợp các lý thuyết, suy nghĩ và cảm xúc mà mọi người thể hiện về thái độ và đánh giá công bằng hoặc không công bằng của họ đối với các luật hiện hành. củ hành. Luật của quá khứ và luật phải có, liên quan đến tính hợp pháp hoặc không hợp pháp của các hành động của con người, thể chế và tổ chức.
2. Cấu trúc của nhận thức pháp luật bao gồm: Tâm lý pháp lý và Tư tưởng pháp lý
* Dựa trên trình độ và giới hạn nhận thức
– Kiến thức pháp luật
– Ý nghĩa lý thuyết của luật
* chủ đề dựa trên ytpl
– Nhận thức Pháp luật Xã hội
– Ý thức về luật nhóm
– Nhận thức Pháp lý Cá nhân
Qua định nghĩa trên có thể thấy: xét từ góc độ nội dung, ý thức pháp luật bao gồm hai bộ phận: tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
+ Tư tưởng pháp luật là tổng thể các tư tưởng, quan điểm, phạm trù, khái niệm, lý luận về pháp luật, tức là tất cả những vấn đề lý luận về pháp luật, về kiến trúc thượng tầng hợp pháp của xã hội. bang hội.
+ Tâm lý pháp luật được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm, cảm xúc về pháp luật và các hiện tượng pháp luật khác, được hình thành một cách tự phát thông qua giao tiếp và sự tác động của pháp luật. Các hiện tượng pháp lý là phản ứng tự nhiên của con người đối với các hiện tượng đó.
Phần 39: Những Đặc điểm Cơ bản của Nhận thức Pháp luật
Ý thức pháp luật có những đặc điểm sau:
Thứ nhất với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự điều chỉnh của các quy luật tồn tại xã hội, nhưng nó có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở một số khía cạnh:
+ Có xu hướng lạc hậu hơn tồn tại xã hội
+ Tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp lý khoa học, có thể vượt ra khỏi sự phát triển của tồn tại xã hội trong những điều kiện nhất định.
+ Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội kế thừa ý thức pháp luật thời đại trước. Tất nhiên các yếu tố kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
+ Ý thức pháp luật có tác động trở lại tồn tại xã hội. Nó có thể là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của hiện tượng.
Thứ hai , ý thức pháp luật là một hiện tượng mang tính giai cấp. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật, nhưng có một số hình thức ý thức pháp luật: ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị và ý thức pháp luật của tầng lớp trung lưu. thời gian.
Phần 40: Nhận thức Pháp luật và Luật
Ý thức pháp luật và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Các nguyên tắc và cơ sở của việc xây dựng và thực hiện pháp luật, các nguyên tắc và cơ sở để hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật được thể hiện ở những điểm sau:
1. Nhận thức pháp luật là tiền đề trực tiếp về mặt tư tưởng để thiết lập và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Pháp luật là hiện thân của ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Những thay đổi khách quan của đời sống xã hội trước hết được phản ánh trong ý thức pháp luật, sau đó là các quy phạm pháp luật tương ứng. Không có ý thức pháp luật phù hợp với tính chất và hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn phát triển của xã hội thì không thể hình thành hệ thống pháp luật đồng bộ và phù hợp.
2. Ý thức pháp luật là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh sự phát triển của các quan hệ xã hội theo hướng phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy nhiên, mục đích của điều chỉnh pháp luật được thực hiện thông qua hành vi của con người và các tổ chức xã hội, trong đó hành vi tự giác của công dân phù hợp với yêu cầu của pháp luật là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đảm bảo hiệu lực của pháp luật.
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của công dân và thái độ của họ đối với quy định của pháp luật. Vì vậy, nếu ý thức pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần tôn trọng pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật càng được bảo đảm.
3. Nhận thức pháp luật là cơ sở để đảm bảo việc áp dụng đúng các quy phạm pháp luật
Ý thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng pháp luật. Để áp dụng đúng quy phạm pháp luật, cần hiểu chính xác nội dung và yêu cầu của quy phạm, đồng thời phải hiểu và làm rõ nội dung, ý nghĩa của quy phạm. Để làm được điều này, ý thức pháp luật của những người áp dụng pháp luật cần được phát triển đầy đủ, đồng thời phải có nền tảng văn hóa pháp lý vững chắc.
4. Pháp luật là cơ sở để củng cố, phát triển và nâng cao nhận thức pháp luật
Đến lượt mình, pháp luật là sản phẩm trực tiếp của hoạt động lập pháp, vì vậy nó phản ánh ý thức pháp luật của cơ quan lập pháp và nhân dân, được hình thành trên cơ sở ý chí của cơ quan lập pháp. ý thức. Thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, ở mức độ nhất định, kiên quyết loại bỏ những hành vi vi phạm pháp luật, làm cho quan điểm, khái niệm pháp luật đúng đắn, rõ ràng hơn để hình thành và phát triển. Giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật sẽ là điều kiện quan trọng để thúc đẩy việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và tổ chức thực thi pháp luật có hiệu quả.
Phần 41: Giáo dục Pháp luật: Khái niệm, Mục đích, Hình thức, Phương pháp, Tác dụng, Kết nối của Giáo dục Nhận thức Pháp luật
* Giáo dục pháp luật là sự tác động trực tiếp của sự kết hợp các quy trình xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, phổ biến và giải thích pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật.
gdpl có hai nghĩa: theo nghĩa rộng, gdpl là quá trình trong đó các yếu tố chủ quan và khách quan cùng tác động đến sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật của cá nhân. Yếu tố khách quan là điều kiện kinh tế, hệ thống chính trị xã hội, môi trường sống trực tiếp của cá nhân (người thân trong gia đình, bạn bè …). Yếu tố chủ quan là những hoạt động có tổ chức, có hệ thống của nhà nước và các thiết chế xã hội.
Mục đích : Cung cấp kiến thức pháp luật và cho phép sinh viên được giáo dục hình thành cảm xúc pháp lý và hành vi tuân thủ các yêu cầu pháp lý.
Giáo dục nhận thức pháp luật hiệu quả:
-Nâng cao dân trí, ươm mầm tài năng, rèn luyện nhân tài vì sự nghiệp xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
-Giáo dục nhân cách, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của các cá nhân trong xã hội hiện đại
– Xây dựng lòng yêu lao động và đánh giá đúng đắn các hiện tượng xã hội và pháp luật
Hình thức giáo dục pháp luật cơ bản:
– phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp – tuyên truyền miệng, phổ biến pháp luật
– gdpl trên các phương tiện thông tin đại chúng, viết giáo trình, tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật
– Gdpl của trường
– tổ chức kỳ thi luật
– Phổ biến, gdpl, xây dựng, quản lý, xây dựng tủ sách pháp luật thông qua các hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật
– Phổ biến, GDPL Phê duyệt Hợp đồng Tư vấn Pháp lý và Trợ giúp Pháp lý
– Thông qua các ủy ban hòa giải ở cơ sở, thông qua các hoạt động văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền thống, để phổ biến gdpl
Phương pháp:
– Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức để nâng cao đời sống công cộng, văn hóa, tinh thần và nâng cao trình độ học vấn của nhân dân. Hoàn thiện pháp luật và các quy định theo hướng thực tiễn, thể hiện và có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước
– Đẩy mạnh trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật và trừng phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm pháp luật. Sự kết hợp của nhiều hình thức vận động và giáo dục pháp luật phù hợp
Ở Việt Nam, nghĩa hẹp là gdpl là hoạt động chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm hình thành và phát triển ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa. , động cơ và thói quen của mọi người. gdpl là hình thức giáo dục tương đối độc lập với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và thẩm mỹ.
Câu 42: Văn hóa pháp luật: tư tưởng, biện pháp chủ yếu để xây dựng văn hóa pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ngày nay.
1. Khái niệm
Xem Thêm : Tổng hợp lời chúc ngày Báo chí Việt Nam 21/6 hay và ý nghĩa nhất
Văn hóa pháp lý là cách nhìn về luật đặt luật trong mối quan hệ đa chiều với khoa học hành vi, cách nghĩ, cách làm, tôn giáo, tín ngưỡng và các đặc điểm nhân chủng học của cá nhân, cộng đồng và nhóm chủng tộc.
2. Phương hướng xây dựng văn hóa pháp luật Việt Nam
Có thể nói, hài hòa các giá trị pháp lý và văn hóa gắn với thế giới là yêu cầu thực tế khách quan của chúng ta. Cân bằng giữa “cái mình có” và “cái mình cần” để tạo nên diện mạo mới của văn hóa pháp luật dân tộc được coi là nội dung cốt yếu nhất của phương hướng xây dựng văn hóa. Pháp luật Việt Nam ngày nay.
Thứ nhất : Bảo vệ và phát triển văn hóa pháp luật dân tộc: không quốc gia nào đánh mất bản sắc văn hóa của mình trước sức ép của toàn cầu hóa một cách toàn diện và nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu một hướng bảo thủ trong văn hóa dân tộc và không cởi mở chấp nhận các giá trị văn hóa nói chung, văn hóa pháp luật nói riêng của chúng ta sẽ trở thành ốc đảo trong thế giới văn minh, và không tránh khỏi cảm giác thấp kém, lạc hậu. Về lý luận, mục tiêu cuối cùng của xây dựng văn hóa là tạo ra hai yếu tố: môi trường văn hóa và con người văn hóa. Hai yếu tố này tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó yếu tố con người là quyết định. Việc xây dựng văn hóa pháp luật không thể tách rời những người có văn hóa pháp luật và giáo dục pháp luật. Mặt khác, do văn hóa pháp luật chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở ý thức pháp luật và ý thức pháp luật ý thức giá trị xã hội nên tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với vai trò của chủ thể pháp luật trước hành vi thực tế của mình. Muốn vậy, một hệ tư tưởng pháp luật mang đặc trưng Việt Nam phải được hình thành. Hệ tư tưởng pháp luật là nguyên tắc, hệ tư tưởng, quan điểm thể hiện bản chất, phương pháp luận khách quan và hệ tư tưởng giai cấp trong pháp luật (hoặc thông qua pháp luật). Hệ tư tưởng pháp luật hướng dẫn hành vi thực tế của chủ thể trong quan hệ pháp luật là hình thức phản ánh của văn hóa pháp luật hiện thực. Tư tưởng pháp luật Việt Nam phải là sự kết hợp các nguyên tắc pháp luật, pháp luật xã hội chủ nghĩa với truyền thống lý luận và lịch sử của pháp luật Việt Nam. Đó phải là sự kết hợp hài hòa giữa quan niệm pháp luật mácxít với các giá trị xã hội pháp lý và tư duy pháp luật của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ tư tưởng pháp luật này dựa trên một hệ thống nguồn gốc pháp lý đa dạng, phải phản ánh đường lối và chính sách của đảng ở các giai đoạn khác nhau, cũng như sự thừa nhận các chuẩn mực đạo đức, tính ưu việt và phong tục truyền thống. Trong quá trình nâng cao nhận thức pháp luật, các yếu tố, giá trị đạo đức truyền thống, lịch sử cội nguồn của dân tộc cần được khơi gợi để thúc đẩy hình thành động cơ, thái độ hành vi lành mạnh, chính đáng. Tâm lý pháp luật đúng đắn và tích cực là ở ý thức chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật thực tế. Tuy nhiên, từng góc độ cụ thể và biểu hiện của văn hóa pháp luật cần được làm rõ để hình thành giải pháp phù hợp.
Thứ hai: Vấn đề chấp nhận các giá trị văn hóa pháp lý của con người: toàn cầu hóa, hợp tác và cạnh tranh là xu hướng khách quan của thập kỷ này và vài thập kỷ tới. Trong tất cả các lĩnh vực xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật, bảo vệ và tiếp nhận các giá trị văn hóa pháp luật, cần quán triệt sâu sắc khái niệm chủ động hội nhập. Đây là một thực tế khách quan, bởi văn hóa luôn có tính phổ biến, là sản phẩm của con người, không thể khép mình để bác bỏ những giá trị và loại hình văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, đây cũng là một thách thức lớn, khi toàn cầu hóa đang tiến nhanh trên mọi lĩnh vực, và chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ (và không phải do những khoảng trống quá lớn) về những gì cần thiết để chấp nhận nội dung toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa sẽ gây nhiều áp lực cho nền kinh tế và thương mại, đặc biệt là việc gia nhập WTO. Và, nếu không đáp ứng được các điều kiện cần thiết để chấp nhận hoặc chấp nhận nửa vời, thì toàn cầu hóa sẽ có hại cho nền kinh tế và xã hội của chúng ta. Cùng với quá trình này, toàn cầu hóa sẽ làm thay đổi quy mô của các giá trị pháp lý và xã hội mà nước ta đã chấp nhận từ lâu, mặc dù có những hạn chế nhất định. Điều này cũng có nghĩa là các giá trị pháp lý và văn hóa được truyền tải thông qua nội dung và hoạt động của quá trình toàn cầu hóa sẽ thâm nhập vào nước ta một cách không đầy đủ, bị bóp méo và khó được chấp nhận rộng rãi. Đồng thời, xu thế toàn cầu hoá là xu thế phát triển, tiến bộ và đa dạng hoá của con người. Cần hiểu đúng nội hàm, yêu cầu, đặc điểm và những thuận lợi, khó khăn, thách thức của đất nước, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý, tiếp nhận các giá trị pháp lý của văn minh nhân loại. Điều này đòi hỏi phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị của văn hóa pháp luật thế giới, với phương châm hòa quyện không hòa tan, đồng thời mở rộng giao lưu với các nền văn hóa khác dưới nhiều hình thức. Nâng cao ý thức pháp luật của mọi đối tượng và khả năng ứng xử với các tình huống pháp luật thực tế để thích ứng với nếp sống mới – nếp sống văn minh theo pháp luật. Đồng thời, bỏ quan niệm coi trọng đạo đức, lối sống nhân văn, giảm nhẹ vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội.
Mục 43: Quy phạm pháp luật: Khái niệm, cấu trúc (cấu trúc), các biểu hiện pháp lý của quy phạm pháp luật.
1. Khái niệm
Luật pháp và quy định là các quy tắc và tiêu chuẩn mà tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan nói chung có nghĩa vụ thực hiện hoặc thực thi và được ban hành hoặc công nhận bởi các cơ quan quản lý ở một quốc gia có thẩm quyền. Quy phạm pháp luật là tế bào, đơn vị cơ bản của cấu trúc quy phạm pháp luật (bao gồm quy phạm pháp luật, hệ thống quy phạm pháp luật, ngành pháp luật và hệ thống pháp luật). Cấu trúc của quy phạm pháp luật bao gồm ba phần. Đây tương ứng là các giả định, quy định và chế tài, nhưng không nhất thiết phải có cả ba phần của quy phạm pháp luật.
2. Cấu trúc của các quy phạm pháp luật (cấu trúc)
3. Biểu thức pháp lý
Các quy phạm pháp luật có trong các văn bản pháp luật, tiền lệ pháp và tập quán pháp (luật tục), trong số các hình thức khác
& gt; & gt; & gt; Xem các bài viết khác: Xác định cấu trúc của luật
Câu 45 + 46. Văn bản quy phạm pháp luật (vbqppl).
+ Khái niệm, So sánh các văn bản pháp lý
+ Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc gia của Việt Nam
* Khái niệm: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục pháp lý, bao gồm các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện. Thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Hệ thống nộp đơn pháp lý bao gồm:
– Các văn bản do Quốc hội ban hành: hiến pháp, luật, nghị quyết. Các văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: nghị định, nghị quyết;
– Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở trung ương cấp:
+ Các mệnh lệnh và quyết định của Tổng thống;
+ Các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
+ Quyết định, chỉ thị, thông báo của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
+ Nghị quyết của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông báo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Các nghị quyết và thông báo chung giữa các cơ quan chức năng quốc gia, giữa các cơ quan chức năng quốc gia và các tổ chức chính trị – xã hội;
-Các văn bản do Quốc hội hoặc Ủy ban nhân dân cấp:
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
+ Các quyết định, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân.
* Hiệu lực của các văn bản pháp lý:
– Hiệu lực theo thời gian: Hiệu lực theo thời gian được xác định từ khi tài liệu được tạo ra cho đến khi tài liệu bị chấm dứt hiệu lực.
– Hiệu lực không gian: Phạm vi không gian của một văn bản pháp lý có thể là toàn bộ lãnh thổ quốc gia, hoặc nó có thể là một địa điểm hoặc khu vực.
– Đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật: Đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các cá nhân, tổ chức và các quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh.
* So sánh văn bản pháp luật với văn bản pháp luật
– Đồng nhất: Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Khác nhau:
+ chứa các quy tắc ứng xử chung
+ áp dụng cho tất cả các môn học
+ Hình thức: luật, vb theo luật
+ Chứa quy tắc ứng xử cụ thể
+ Áp dụng cho chủ đề được chỉ định
+ Bản phát hành dựa trên vbqppl
Đánh giá, quyết định …
câu 47 + 48. Hệ thống pháp luật (htpl). * Khái niệm : Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, phương hướng và mục đích. Pháp luật và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau. Chúng được chia thành các nhánh pháp luật, cơ quan pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới hình thức sau: Một số thủ tục nhất định.
* Thành phần:
-Về cấu trúc bên trong: htpl bao gồm luật và quy định, thể chế luật và nghề luật
+ Legal: Đây là đơn vị nhỏ nhất cấu thành htpl
+ Hệ thống pháp luật: là tập hợp các qppl điều chỉnh tập hợp các mối quan hệ xã hội thuần nhất có quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Nhánh pháp luật: Là hệ thống qppl điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
– Về hình thức: httpl gồm có vbqppl.
* Cơ sở để phân biệt và phân định các ngành luật: Có hai cơ sở chính:
– Chủ thể điều chỉnh: Là các quan hệ xã hội cùng loại, thuộc cùng một lĩnh vực đời sống xã hội, cần được điều chỉnh theo quy luật. Mỗi ngành luật sẽ điều chỉnh một loại quan hệ xã hội cụ thể.
– Phương pháp điều chỉnh: Là phương pháp tác động vào các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật này. Có hai phương pháp điều chỉnh chính:
+ Phương pháp tham vấn bình đẳng: Là phương thức tác động trong đó nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quan hệ pháp luật nhưng đưa ra khuôn khổ mà các bên trong quan hệ pháp luật có thể thỏa thuận. Trong khuôn khổ này, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật là bình đẳng
+ Phương thức ủy quyền: Là phương thức tác động trong đó một bên trong quan hệ pháp luật có quyền ra lệnh và bên kia phải đệ trình.
* Biểu mẫu được hợp pháp hóa:
-Khái niệm hệ thống hóa pháp luật: là hoạt động sắp xếp, điều chỉnh, bổ sung nội dung của vbqppl nhằm củng cố hệ thống htpl.
– Biểu mẫu được hợp pháp hóa:
+ Tổng hợp: Là sắp xếp các vbqppl hoặc tách các qppl theo một thứ tự nhất định, không thay đổi nội dung tài liệu, không thêm quy tắc mới mà chỉ cần loại bỏ các qppl đã hết hạn sử dụng đã tồn tại. Tổng hợp cho: Mọi cá nhân và tổ chức.
+ Mã hóa: là một hoạt động của cơ quan có thẩm quyền quốc gia, trong đó không chỉ các vbqppl hiện có được thu thập theo một trình tự nhất định để loại bỏ các thông số kỹ thuật lỗi thời và mâu thuẫn, mà các quy tắc mới được thêm vào để thay thế các qppl đã bị xóa và lấp đầy các khoảng trống và nâng cao hiệu quả của chúng. Kết quả của công việc, một vbqppl mới đã được sinh ra.
Mục 49. Hệ thống pháp luật của Việt Nam
1. Khái niệm cơ bản:
Khái niệm: Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, phương hướng, mục đích có liên quan chặt chẽ và thống nhất với nhau, được chia thành các ngành luật, hệ thống pháp luật và các văn bản ban hành ở Việt Nam được phản ánh trong. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với những hình thức và thủ tục nhất định.
Có hai khía cạnh cụ thể của hệ thống pháp luật:
* Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam:
– Hiến pháp – do Quốc hội ban hành
– Luật hoặc quy định do Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký ban hành. Ví dụ: Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hàng hải
– Các văn bản pháp lý bao gồm:
* Hệ thống cấu trúc của pháp luật Việt Nam bao gồm ba yếu tố cơ bản:
2. Hoàn thiện chuẩn htpl đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước pháp quyền tại Việt Nam
-Thiết lập và cải tiến luật kinh tế và cố gắng cải thiện hệ thống
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
– Phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, vì nhân dân phục vụ
p>
– Cải thiện pháp luật về giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội
– Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
– Xây dựng và hoàn thiện luật hội nhập quốc tế
– Phát triển và phê duyệt các chương trình phát triển luật / quy định sáng tạo.
-Cải thiện luật đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng của pháp luật
– Tăng cường các điều kiện để bảo vệ sự phát triển pháp luật
-Nâng cao phẩm chất, trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi pháp luật
– Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ và thường xuyên công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về hệ thống pháp luật
-Tăng cường giám sát việc thi hành pháp luật; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện và áp dụng pháp luật, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật
– Tăng cường các công cụ điều chỉnh xã hội khác để hỗ trợ pháp luật.
& gt; & gt; & gt; Xem Thêm: Quyền Ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật của các Tổ chức Nhà nước
Mục 50. Luật pháp:
* Khái niệm:
—— Về bản chất và ý nghĩa xã hội: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là yêu cầu tồn tại của hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, là nền tảng của sự tồn tại. Là chấp hành và thực thi đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân.
——Về hình thức: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một hệ thống đặc biệt của đời sống chính trị xã hội. Trong đó, mọi cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cán bộ nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác pháp luật.
* Nguyên tắc thống nhất của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa: Sự thống nhất của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đòi hỏi bộ máy nhà nước, địa phương và nhân dân cả nước đều phải thừa nhận và thực hiện cũng như toàn bộ hệ thống pháp luật đã được xây dựng. Một mặt, nó tạo điều kiện cho việc thực hiện pháp luật và xem xét hiệu lực của pháp luật. Theo sự “thao túng” riêng của nhà nước, chỉ cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền quyết định sự thay đổi của các văn bản quy phạm pháp luật. Bảo đảm sự thống nhất của nhà nước pháp quyền là điều kiện tất yếu để thực hiện dân chủ cho mọi công dân và quyền lực quốc gia.
* Nguyên tắc về sự thống nhất của luật pháp và mối quan hệ giữa tính hợp lý và công lý:
-Trong môi trường pháp luật, tính hợp lý được biểu hiện là tuân theo pháp luật, với mục đích đề ra, chủ thể lựa chọn phương án tối ưu cho việc thực hiện pháp luật. Cơ sở của tính hợp lý của pháp luật là phản ánh đúng yêu cầu của sự phát triển xã hội vào quy luật. Nếu pháp luật xác định một cách chính xác ý chí và các giá trị xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thì pháp luật chắc chắn là hợp lý.
-Các yêu cầu của luật là giải quyết các vấn đề cụ thể từ các nguyên tắc chung của luật và từ sự công bằng.
– Tính hợp pháp đòi hỏi mọi hoạt động phải tuân theo pháp luật, không trái pháp luật.
Mục 51. Thực thi pháp luật:
* Khái niệm :
Thực thi pháp luật là quá trình làm cho các quy định của pháp luật trở thành hiện thực và trở thành hành vi pháp lý thực tế của pháp nhân. pháp luật.
* Hình thức thực thi:
– Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực thi pháp luật mà pháp nhân không tham gia vào các hoạt động bị pháp luật cấm. Hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động và tuân thủ các quy định của pháp luật dưới hình thức không hành động.
– Cưỡng chế: là hình thức cưỡng chế mà pháp nhân có hành động tích cực để thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình. Ví dụ, người nộp thuế nộp thuế cho nhà nước đầy đủ và đúng hạn. Khác với việc tuân theo pháp luật, các hình thức cưỡng chế yêu cầu chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý dưới hình thức hành động tích cực.
– Sử dụng pháp luật: là hình thức thi hành pháp luật trong đó chủ thể của pháp luật thực hiện các quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi được pháp luật cho phép). Thực hiện quyền khởi kiện, khiếu nại trong khuôn khổ pháp luật, chẳng hạn như ký hợp đồng. Hình thức này khác với hình thức trên ở chỗ, chủ thể pháp luật có thể tự ý thực hiện hoặc không thực hiện các quyền được pháp luật cho phép chứ không phải bắt buộc phải thực hiện.
– Áp dụng pháp luật: Là hình thức thi hành pháp luật trong đó nhà nước tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật thông qua cơ quan có thẩm quyền của quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền. Đưa ra các quyết định gây ra, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Luật áp dụng là một hình thức luôn cần có sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan chức năng.
* Mối quan hệ giữa thực thi pháp luật và pháp chế và giáo dục pháp luật:
– Giúp tìm hiểu, phân tích và đánh giá các loại lợi ích xã hội, xu hướng xã hội trong hoạt động thực thi pháp luật.
-Làm rõ những yếu tố mới phát sinh từ khi luật được ban hành có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng luật
-Hiểu trình độ và khả năng của các tổ chức thực thi pháp luật
– Tìm hiểu về cơ chế thực thi
– Việc thực hiện pháp luật là yếu tố quan trọng để sàng lọc, kiểm tra tính đúng đắn của pháp luật để từ đó đưa ra chính sách pháp luật đúng đắn và phù hợp nhất nhằm giáo dục có hiệu quả. đạt cao nhất.
Câu 52: Áp dụng pháp luật
* Khái niệm:
Áp dụng pháp luật là hình thức thi hành pháp luật trong đó nhà nước tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các cơ quan ban ngành có thẩm quyền hoặc tự mình ra quyết định theo quy định của pháp luật. , thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Luật áp dụng là một hình thức luôn cần có sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan chức năng.
* Các tình huống bắt buộc phải có luật hiện hành:
– Quan hệ pháp luật với các quyền và nghĩa vụ cụ thể không tự động phát sinh nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. Đơn cử, một xác chết được phát hiện dưới sông có dấu hiệu bị đánh chết, cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố, trưng cầu giám định pháp y.
– Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên trong quan hệ pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể mà các bên không tự giải quyết được. Chẳng hạn như tranh chấp hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
– Khi cần thực hiện các biện pháp cưỡng chế quốc gia đối với người vi phạm theo chế tài của pháp luật. Người vi phạm bị phạt vì làm hàng giả, hàng nhái, v.v.
– Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước xét thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên trong quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số trường hợp thực tế công việc, sự kiện. . Ví dụ, tòa án tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người đã chết; nam nữ chung sống, không đăng ký kết hôn hoặc đăng ký tại một cơ sở không được phép và tuyên bố không công nhận vợ chồng.
* Đặc điểm của luật hiện hành:
– Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh của cá nhân đối với một chủ thể và một mối quan hệ.
– Hành pháp là hành vi của quyền lực nhà nước. Mỗi cơ quan, mỗi loại hình cơ quan và mỗi viên chức chỉ được áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định do nhà nước quy định.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông bị phạt vi phạm hành chính nhưng chỉ tham gia giao thông.
– Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi sự sáng tạo của những người áp dụng pháp luật.
– Áp dụng pháp luật là hoạt động tuân theo trình tự tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định.
* Các giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp lý.
– Phân tích và đánh giá đúng đắn và chính xác tất cả các chi tiết, hoàn cảnh và điều kiện của một sự kiện thực tế.
–Chọn qppl thích hợp và phân tích nó, làm rõ nội dung và ý nghĩa của qppl và sử dụng nó trong trường hợp ứng dụng
-Phát hành các văn bản pháp lý
– Các tài liệu tổ chức việc thực hiện các luật hiện hành đã ban hành
Mục 53: Quan hệ pháp luật: Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quan hệ pháp luật; Chủ thể pháp lý và chủ thể của quan hệ pháp luật; Năng lực và năng lực pháp luật.
1. Khái niệm:
Quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội mang tính pháp lý, xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật và sự điều chỉnh của các tình tiết pháp lý tương ứng, các bên có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định và được pháp luật bảo đảm và bảo vệ. dân tộc.
Pháp luật và các mối quan hệ xã hội: Mọi quan hệ pháp luật đều là quan hệ xã hội, nhưng không phải mọi quan hệ xã hội đều hợp pháp. Đây cũng là giới hạn tác động của pháp luật.
2. Các đặc điểm cơ bản của các mối quan hệ pháp lý
+ Các quy phạm pháp luật là nền tảng của các quan hệ pháp luật.
+ Quan hệ pháp luật của di chúc.
+ Các quan hệ pháp luật là kiến trúc thượng tầng.
+ Các bên tham gia quan hệ pháp luật có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.
+ Mối quan hệ pháp lý rõ ràng, cụ thể.
+ Quan hệ pháp luật được nhà nước đảm bảo và bảo vệ.
– Chủ thể quan hệ pháp luật: cá nhân, tổ chức tuân thủ đầy đủ các điều kiện quan hệ pháp luật khác nhau do nhà nước quy định và tham gia vào quan hệ pháp luật.
– Chủ thể: Một cá nhân, tổ chức có thể thỏa mãn các điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.
Khả năng chủ thể bao gồm hai yếu tố: khả năng pháp lý và khả năng hành vi
+ Năng lực pháp luật: khả năng được hưởng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
+ Năng lực hành vi: Là khả năng của một cá nhân, tổ chức được nhà nước thừa nhận thông qua hành vi của mình, khả năng chủ thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý, khả năng tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
– Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành động
+ nlpl và nlhv của chủ thể pháp luật không phải là thuộc tính tự nhiên của con người mà là thuộc tính pháp lý, vì nó phụ thuộc vào ý chí của nhà nước
+ Năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực, nếu chủ thể pháp luật chỉ có năng lực pháp luật mà không có năng lực pháp luật thì không thể tham gia tích cực vào qhpl (nlpl là điều kiện cần), nlhv là điều kiện đủ đối với cá nhân hoặc tổ chức trở thành chủ thể quan hệ pháp luật.
+ Thang đo nlpl của cá nhân theo khả năng hành vi của họ.
Phần 54: Cơ sở để tạo, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp lý
1. Luật và các quy định và các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
Luật là cơ sở mà quan hệ pháp luật tương ứng phát sinh, thay đổi và chấm dứt. Không có quan hệ pháp luật nào mà không có qppl.
Sự tồn tại của một chủ thể có năng lực chủ thể: năng lực pháp luật và năng lực hành động
2. Sự kiện pháp lý
Quan hệ pháp luật dân sự được tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt do những sự kiện – sự kiện pháp lý nhất định. Sự kiện pháp lý là sự kiện xảy ra trong thực tế, sự kiện mà pháp luật có thể thấy trước, điều chỉnh được và tạo ra hậu quả pháp lý (tạo ra, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự).
Phân loại các sự kiện pháp lý
+ Hành vi hợp pháp là hành vi có mục đích của chủ thể nhằm tạo ra hậu quả pháp lý. Đây là mặt bằng chung nhất về hậu quả pháp lý theo luật dân sự. Hành vi pháp lý được chia thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp;
+ Hành vi hợp pháp là hành vi cố ý của chủ thể phù hợp với pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội nhằm tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ. hệ thống pháp luật;
+ Hành vi trái pháp luật là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, các nguyên tắc pháp luật chung và đạo đức xã hội;
+ Các quyết định của cơ quan quốc gia dẫn đến hậu quả pháp lý cũng là hành vi hợp pháp. Ví dụ: quyết định giao đất, phân chia nhà, quyết định bồi thường thiệt hại của tòa án, quyết định xác định chủ sở hữu tài sản của tòa án, quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất …
3. Thủ tục pháp lý
Xử lý pháp lý là một hành vi không có ý định dẫn đến hậu quả pháp lý, nhưng theo yêu cầu của pháp luật, sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý. Ví dụ, người đào được tài sản có giá trị lớn, nếu không phải là đồ cổ thì được hưởng 50% giá trị.
4. Những thay đổi trong luật
Biến pháp luật là sự kiện xảy ra độc lập không phụ thuộc vào mong muốn của người bình thường, đặc biệt là những người tham gia vào các quan hệ dân sự. Các biến thể pháp lý được chia thành các biến thể pháp lý tuyệt đối và các biến thể pháp lý tương đối.
Biến tuyệt đối là những sự kiện xảy ra trong tự nhiên hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Ví dụ: động đất, núi lửa, bão, lũ lụt …
Biến tương đối là những sự kiện xảy ra do hành động của con người, nhưng độc lập với hành động của người tham gia và có hậu quả pháp lý đối với họ.
5. Thời hạn
Thời hạn là một sự kiện pháp lý đặc biệt tạo ra, làm thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của công dân. Thời gian là một phạm trù triết học không có đầu không cuối. Thời gian trôi đi không phụ thuộc vào ý chí của con người. Do đó, có hậu quả pháp lý trong một khoảng thời gian nhất định do pháp luật quy định.
Ví dụ: thời hiệu, thời hiệu quyền, thời hiệu thực hiện nghĩa vụ …
Phần 54: Bất hợp pháp: Các khái niệm và dấu hiệu cơ bản của bất hợp pháp, các yếu tố của bất hợp pháp
1. Khái niệm
Bất hợp pháp là hành vi gây tổn hại cho xã hội, vi phạm lợi ích được bảo vệ bởi ngành luật tương ứng hoặc vi phạm các quy định của ngành luật đó. Tuổi năng lực pháp luật và trách nhiệm pháp lý.
2. Các dấu hiệu vi phạm cơ bản
– Một là: vppl phải là hành vi khách quan, nguy hiểm cho xã hội, do con người thực hiện dưới hình thức hành vi hoặc thiếu sót (còn gọi là hành vi hoặc hành vi), a vi phạm những lợi ích (khách quan) này và gây ra (hoặc có thể gây ra) những hậu quả cụ thể có hại về lợi ích dân sự, xã hội hoặc lợi ích quốc gia.
(Chỉ những hành động mà con người thực hiện một cách có ý thức và có chủ đích trong thực tế khách quan mới được các nhà lập pháp coi là vppl).
Hai là : vppl phải là bất hợp pháp vì hành động (hoặc thiếu sót) của nó vi phạm các điều khoản liên quan do nhà lập pháp quy định trong văn bản (lợi ích được pháp luật bảo vệ). ) từng ngành luật cụ thể, tức là vi phạm điều cấm được quy định trong luật.
-Ba có : vppl phải là hành vi do người có năng lực pháp luật thực hiện
Người có năng lực tnpl là người ở trạng thái bình thường, có đủ năng lực để nhận thức đầy đủ thực tế và bản chất của tình huống khi thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật nghiêm cấm. Bản chất pháp lý của hành vi mà họ thực hiện và khả năng có toàn quyền kiểm soát hành vi đó.
– Bốn là: vppl phải chịu trách nhiệm về hành vi do người đủ tuổi hợp pháp thực hiện
Người đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý là người tại thời điểm phạm tội đã đủ tuổi theo quy định của cơ quan pháp luật có liên quan để hiểu đầy đủ bản chất thực tế và pháp lý của hành vi. Tôi cũng có thể kiểm soát hoàn toàn hành vi này.
-năm : vppl phải là một hành động có tính chất sai trái, tức là một hành vi phạm tội của một người có khả năng và độ tuổi tnpl bị phạm tội.
3. Các yếu tố cấu thành bất hợp pháp
-Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: là những dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật.
Bao gồm các yếu tố: hành vi trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện trái pháp luật, hành vi trái pháp luật.
—— Mặt khách quan của hành vi trái pháp luật: Là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích bất hợp pháp.
-chủ thể mời chào: là cá nhân, tổ chức có đủ năng lực pháp luật và có hành vi vi phạm pháp luật.
Đối tượng vi phạm: là một mối quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ khỏi sự lạm dụng vppl, nhưng bị vi phạm và gây ra bởi một hành vi bất hợp pháp (hoặc đe dọa thực sự gây ra) một số tổn hại đáng kể.
* Khái niệm
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả của hành vi của vppl, được thể hiện trong đơn của Cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước (người có chức vụ) đối với người có lỗi về hành vi đó. vppl Một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế (chế tài của quốc gia do các cơ quan pháp luật khác nhau quy định).
* Đặc điểm cơ bản của trách nhiệm
Thứ nhất: là kết quả của hành vi vppl, tnpl chỉ xảy ra khi các sự kiện vppl xảy ra
+ Trong thực tế khách quan, nếu bạn không thực hiện những hành vi vppl – những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm và gây nguy hiểm cho xã hội thì sẽ không có vấn đề gì về trách nhiệm pháp lý
+ tnpl là trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt hơn bất kỳ hình thức nào khác
: tnpl thứ hai luôn được thực hiện trong phạm vi quan hệ pháp luật giữa hai bên, với tính chất là hai chủ thể có quyền và nghĩa vụ nhất định. Một mặt là nhà nước, mặt khác là người thực hiện hành động vppl
+ Nhà nước có quyền xử lý những người thực hiện hành vi vppl, nhưng nghĩa vụ chỉ có thể bị xử lý trên cơ sở và trong phạm vi của pháp luật
+ Người thực hiện hành vi vppl: công dân có nghĩa vụ bị tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền, tự do, nhưng đồng thời có quyền yêu cầu nhà nước nhân dân phải tuân theo mọi quyền, lợi ích và các quy định của pháp luật.
Thứ ba: tnpl được xác định theo lệnh đặc biệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà pháp luật phải quy định.
Thứ tư: tnpl chỉ có thể được thực thi trong một văn bản ràng buộc pháp lý và áp dụng cho một người đã áp đặt một hoặc nhiều biện pháp trừng phạt quốc gia theo luật.
Điều 5: Nếu tnpl trong luật hình sự chỉ dành cho người thì pháp nhân cũng có thể bị truy tố trong một số ngành tương ứng của luật phi hình sự.
* Cơ sở Trách nhiệm:
– Cơ sở thực tế về trách nhiệm pháp lý và vi phạm. Trách nhiệm pháp lý chỉ phải chịu trong trường hợp vi phạm pháp luật.
– Cơ sở pháp lý để khởi tố là quyết định của các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trên cơ sở xem xét và giải quyết các vụ án bất hợp pháp có hiệu lực pháp luật.
– Biện pháp trách nhiệm pháp lý là một loại biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể: trừng phạt hoặc khôi phục các quyền bị vi phạm nhưng chỉ được thực hiện trên cơ sở quyết định của cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền.
Phần 56: Cơ chế điều chỉnh pháp lý: Khái niệm, các giai đoạn của cơ chế điều chỉnh pháp lý
Cơ chế điều chỉnh pháp lý:
-Khái niệm “cơ chế điều chỉnh pháp luật” có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Nó giúp các nhà nghiên cứu nghiên cứu luật từ góc độ hệ thống.
-Cơ chế quy định pháp luật là một khái niệm phức tạp:
+ Theo quan điểm chức năng: là hệ thống các phương tiện pháp lý tác động vào các quan hệ xã hội thông qua các chủ thể.
+ Góc độ tâm lý: là chủ thể tác động vào ý chí của con người để tạo ra hành vi phù hợp (có quy phạm pháp luật).
+ Quan điểm xã hội: Định vị trong cơ chế xã hội, tức là cơ chế tác động của các chuẩn mực xã hội lên các quan hệ xã hội, nhằm tạo ra một trật tự xã hội phù hợp với lợi ích xã hội.
=> Cơ chế quy phạm pháp luật là một hệ thống thống nhất các phương tiện pháp lý cụ thể (quy định pháp luật, quyết định áp dụng, hành động thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) có mối quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng lẫn nhau, nhằm thực hiện tác động có hiệu lực của pháp luật đối với quan hệ xã hội. Nhằm thiết lập trật tự pháp lý của các quan hệ xã hội và tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển, phù hợp với mục tiêu và yêu cầu mà pháp luật quy định.
-Cơ chế điều chỉnh pháp luật là quá trình thực hiện tác động của quy luật đối với các quan hệ xã hội: 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu: là giai đoạn xác định luật và các quy định.
Cơ chế quy định pháp luật bắt đầu “hoạt động” với việc xây dựng các quy định pháp luật. Quy phạm pháp luật bắt buộc chủ thể phải hành động vì lợi ích của sự phát triển xã hội, và khuôn mẫu của hành vi này do quy phạm pháp luật quy định.
+ Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn áp dụng pháp luật.
Đây là giai đoạn mà cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định về luật áp dụng theo yêu cầu của pháp luật. (Giai đoạn này không khả dụng trong một số trường hợp).
+ Giai đoạn thứ ba: Là giai đoạn xuất hiện quan hệ pháp luật, nội dung của nó là làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể (cá nhân, tổ chức).
+ Giai đoạn thứ tư: Là giai đoạn thực hiện các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý. Các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong đời sống thực tế thông qua hành vi của chính mình.
Phần 57: Phác thảo những nét cơ bản của hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới
Hệ thống pháp luật Thông luật và luật dân sự là hai hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới. Hai hệ thống này có những đặc điểm riêng, tạo thành những “gia đình” pháp luật với những đặc điểm pháp lý riêng. Mặc dù pháp luật của các nước sở hữu hai hệ thống này ngày nay cũng có nhiều thay đổi theo hướng bổ sung, hạn chế đồng thời tích hợp nhiều nội dung mới nhưng về cơ bản, sự thay đổi này không làm mất đi tính tạo nên “bản sắc” của hai hệ thống pháp luật.
1. Hệ thống luật dân sự hay đơn giản là hệ thống luật – Đức:
Đây là hệ thống pháp luật dựa trên hệ thống pháp luật của Pháp, Đức và luật của một số quốc gia lục địa Châu Âu. Trong đó, pháp luật của Đức là quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn đến pháp luật của các quốc gia khác trong hệ thống pháp luật này. Hệ thống pháp luật của các quốc gia này nhìn chung đều chịu ảnh hưởng của luật La Mã. Ngày nay, hệ thống dân luật có ảnh hưởng rộng khắp, bao gồm các nước lục địa Châu Âu (Pháp, Đức, Ý…), Quebec (Canada), Louisiana (Hoa Kỳ), Nhật Bản và một số nước Châu Mỹ. Tiếng Latinh (Braxin, Vênêxuêla …).
Trong lịch sử, khi các bộ lạc Germanic (người Đức) xâm lược Đế quốc Tây Âu, một số điều khoản của luật La Mã đã được thay thế bằng luật bộ lạc của Đức. Tuy nhiên, vì tinh thần của luật pháp Đức dựa trên yếu tố cá nhân hơn là lãnh thổ, các dân tộc thuộc Đế chế La Mã trước đây và con cháu của họ vẫn được phép sử dụng luật La Mã. Nhà thờ Công giáo La Mã cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì luật La Mã cũ, vì giáo luật, luật được sử dụng bởi các tòa án giáo hội, dựa trên luật La Mã. Vào thế kỷ 11 – 12, khi văn bản gốc của Bộ luật dân sự được phát hiện, các học giả bắt đầu nghiên cứu, lý giải và hiện đại hóa nội dung của bộ luật cũ cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Họ mở các trường luật ở Paris, Oxford, Prague, Heidelberg, Copenhagen, và họ làm luật sư cho Giáo hội, Nhà vua và các vùng lãnh thổ trên khắp châu Âu. Hưởng lợi từ việc đào tạo chung một nội dung, các luật gia từ các nước châu Âu khác nhau đã tạo ra luật dân sự của riêng mình trên cơ sở chung của luật La Mã.
Ngày nay, các học giả luật so sánh tin rằng hệ thống luật dân sự phải được chia thành 3 nhóm riêng biệt:
+ Luật Dân sự Pháp: ở Pháp, Tây Ban Nha và các thuộc địa cũ của Pháp;
+ Luật Dân sự Đức: Ở Đức, Áo, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Hoa Dân Quốc (Lưu ý: luật hiện hành của Trung Quốc và Việt Nam theo truyền thống hàn lâm và sau đó được gộp vào hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, nhưng trên thực tế nhiều và các quy định của hệ thống tòa án có nhiều đặc điểm của luật dân sự);
+ Luật dân sự ở các nước Scandinavia: Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Ireland. Luật của Bồ Đào Nha và Ý cũng chịu ảnh hưởng của Pháp và Đức, nhưng các bộ luật dân sự thế kỷ 19 gần với luật pháp Napoléon hơn, trong khi các bộ luật dân sự thế kỷ 20 giống luật dân sự Đức hơn. Về đào tạo pháp luật, các quốc gia này giống với hệ thống pháp luật của Đức hơn. Luật pháp của các quốc gia này thường được coi là có tính chất hỗn hợp.
Rất khó để phân loại luật Hà Lan hay luật dân sự Hà Lan, nhưng phải thừa nhận rằng luật dân sự Hà Lan đã có tác động đáng kể đến luật tư hiện đại ở nhiều nước. Thông thường, luật dân sự hiện hành của Nga chịu ảnh hưởng trực tiếp của luật Hà Lan.
2. Anglo-Saxon, Common Law hay đơn giản là Common Law:
Luật Anh-Mỹ là luật ra đời ở Vương quốc Anh và sau đó được phát triển ở Hoa Kỳ và các nước thuộc địa khác của Anh, trước Hoa Kỳ. Đây là hệ thống pháp luật phát triển từ tập quán, còn được gọi là hệ thống pháp luật tập quán, hoặc hệ thống pháp luật tiền lệ / phán quyết.
Hiện có ba cách khác nhau để hiểu luật chung:
– Trước hết, đây là hệ thống pháp luật lớn trên thế giới dựa trên truyền thống của hệ thống pháp luật của bạn;
-Thứ hai, về nguồn luật, án lệ thông luật do tòa án đưa ra, khác với luật nghị viện;
– Thứ ba, tòa án và các án lệ thông luật cũng khác với các tòa án bình đẳng và các án lệ về hệ thống tòa án.
Về mặt lịch sử, nguồn gốc của hệ thống pháp luật này có thể bắt nguồn từ năm 1066, khi người Norman xâm lược nước Anh và Hoàng đế William bắt đầu tập trung quyền lực vào tay một tòa án mới. Thuật ngữ thông luật bắt nguồn từ ý tưởng rằng các tòa án do nhà vua tạo ra áp dụng các phong tục chung của vương quốc, thay vì các phong tục pháp lý địa phương áp dụng cho các quận, huyện và các vùng đất phong kiến.
Các nguyên tắc về tính bền vững của thông luật được thiết lập bởi ba tòa án do Vua Henry II (1133-1189) thành lập như các tòa án hành chính để xét xử các tranh chấp về thuế; các tòa án thông luật để giải quyết các vấn đề không liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhà vua; và Tòa án ngai vàng xử lý các vụ việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của gia đình hoàng gia.
Thực ra, ngay từ khi Kaiser Wilhelm nắm quyền, phong tục của ông ít nhiều bị ảnh hưởng bởi văn hóa Đức ở lục địa Châu Âu. Tòa án lúc đó là những người được kêu gọi để giải quyết các tranh chấp, và nếu không có xét xử thì sẽ dùng hình thức tra tấn, buộc bị cáo phải cầm cây sắt nung đỏ, hoặc cầm một cục đá. trong nước sôi, hoặc dưới dạng ngộ độc. Nếu vết thương lành sau thời gian quy định, anh ta sẽ được trắng án và ngược lại.
1154. Vua Henry II đã thành lập hệ thống thông luật và thiết lập một hệ thống tòa án thống nhất mạnh mẽ, và ông đã cử các thẩm phán từ các tòa án hoàng gia trên khắp đất nước để thu thập và lựa chọn các phương pháp giải quyết tranh chấp. Các thẩm phán sau đó sẽ trở lại London để thảo luận về vụ tranh chấp với các thẩm phán khác. Những bản án này sẽ được ghi lại và dần dần trở thành tiền lệ, hay trong tiếng Latinh là theo tiền lệ. Do đó, các thẩm phán sẽ bị ràng buộc bởi những phán quyết trước đó khi đưa ra phán quyết. Thuật ngữ “thông luật” đã ra đời kể từ đó. Do đó, trước khi xuất hiện Nghị viện trong lịch sử luật Anh, thông luật đã được áp dụng trên toàn vương quốc trong nhiều thế kỷ.
Vào thế kỷ 15, khi “thông luật” không đủ để giải quyết một vụ việc, một thực tiễn pháp lý đã nảy sinh trong đó những người khởi kiện cảm thấy rằng giải pháp thông luật là không thỏa đáng. Ví dụ, trong vụ kiện về đất đai, những người khởi kiện cho rằng số tiền thiệt hại theo cách giải quyết thông thường không đủ để bồi thường cho người xâm phạm vì đã cướp chính mình, và họ cho rằng kẻ xâm phạm cũng phải bị đuổi ra khỏi nhà, và đất bị lấn chiếm phải được trả lại. Đây là cơ sở cho sự ra đời của một hệ thống mới, hệ thống bình đẳng, và là cơ sở để thành lập tòa án công minh do Chánh án đứng đầu. Về cơ bản, trong trường hợp có xung đột, luật công bằng vẫn được ưu tiên hơn luật thông thường. Điều này đã được quy định trong Đạo luật Tư pháp năm 1873 và 1875.
Ngày nay, ngoài luật học là một nguồn luật cụ thể trong hệ thống thông luật, các đạo luật và các loại quy phạm khác cũng được coi là một phần của hệ thống pháp luật. Thử nghiệm của các Quốc gia theo hệ thống thông luật thường dựa trên hai câu hỏi rộng, đó là câu hỏi về thực tế và luật theo nghĩa rộng nhất. Trong bất kỳ trường hợp nào, các thẩm phán thông luật ngày nay vẫn dựa vào án lệ, luật theo quy chế và các căn cứ xét xử thực tế khi xét xử.
Phần 58: So sánh ngắn gọn hai hệ thống pháp luật: dân luật và thông luật
Các đặc điểm khác nhau về cơ bản của hai hệ thống được thể hiện rõ ràng nhất ở 4 tiêu chí: nguồn gốc pháp lý; hệ thống hóa; thủ tục (thủ tục); và vai trò của thẩm phán và luật sư (vai trò của luật gia).
1. Về nguồn gốc của luật:
Trong luật dân sự, các quan hệ tài sản gắn liền với các nguyên tắc của luật dân sự La Mã – một tập hợp các quy định pháp luật làm cơ sở cho luật dân sự La Mã của hoàng đế. Justinian (Codex Codex của Justinian). Về ảnh hưởng của luật La Mã, Mác từng cho rằng luật châu Âu không thể mang lại những cải tiến đáng kể cho luật La Mã cổ đại mà chỉ có thể sao chép một cách cơ bản. Thông luật không có ảnh hưởng sâu rộng và kết nối chặt chẽ với các nguyên tắc dân luật La Mã như luật dân sự. Lý do là họ cho rằng tòa án chỉ có thẩm quyền đối với từng trường hợp cụ thể. Luật sư phải được đào tạo và trưởng thành trong hành nghề. Tuy nhiên, cả hai hệ thống pháp luật đều ít nhiều kế thừa sự phong phú và chuẩn mực của thuật ngữ pháp lý La Mã. Chẳng hạn như theo tiền lệ (các quyết định của tòa án trước đó phải được công nhận là tiền lệ); pacta sunt servandas (phải tuân theo hợp đồng).
Ảnh hưởng của học thuyết pháp lý với tư cách là nguồn luật có xu hướng áp dụng cho các quốc gia có thông luật hơn là truyền thống dân luật.
2. Về bản chất của mã hóa
Các khái niệm pháp lý của hai hệ thống pháp luật này khác nhau. Các hệ thống luật dân sự tin rằng luật phải xuất phát từ một thể chế cụ thể (tất cả các luật đều tồn tại trong các thể chế), trong khi hệ thống thông luật tin rằng luật được hình thành bởi tập quán (tất cả luật đều là tập quán). Ngày nay, ở Anh, “lý do” còn là nguồn luật để lấp đầy những khoảng trống pháp lý, làm cho hệ thống pháp luật của Vương quốc Anh trở thành một hệ thống pháp luật mở, luôn ở trạng thái tự hoàn thiện. nó tốt.
Ưu điểm rõ ràng của luật dân sự là tính phổ biến và tính ổn định cao (tính chắc chắn của pháp luật). Cơ sở chính của thông luật là nguồn của luật là tiền lệ (stare Decisionis). Thẩm phán gián tiếp vừa là thẩm phán vừa là người sáng tạo ra pháp luật. Ưu điểm dễ thấy nhất của tập quán là tính đặc thù, linh hoạt và thích ứng với sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Luật lục địa được chia thành luật công và luật tư, trong khi luật Anh-Mỹ không thể phân biệt được. Luật công bao gồm các ngành luật, các cơ quan pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các mối quan hệ trong đó một bên là cơ quan nhà nước. Mặt khác, cơ quan tư pháp bao gồm bộ phận pháp lý, các tổ chức pháp lý quản lý các mối quan hệ với các cá nhân và tổ chức khác. Trọng tâm của luật tư là nguyên tắc tự do ý chí. Tự do ý chí có bản chất là hạn chế quyền lực của nhà nước, thừa nhận rằng công dân có thể làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. Trong lĩnh vực luật tư, nhà nước đóng vai trò trọng tài. Cốt lõi của luật công là công chúng chỉ được làm những gì luật cho phép. Nhà nước buộc phải tuân theo pháp luật.
& gt; & gt; & gt; Xem bài viết: Thông luật so với Luật dân sự
3. Giới thiệu về thủ tục pháp lý
Hệ thống dân luật (dân luật) phát triển hình thức thủ tục xét xử, hệ thống tòa án / tranh luận thành văn, trong khi hệ thống thông luật phát triển hình thức tố tụng tranh tụng (hệ thống án lệ / tranh luận miệng). Tuy nhiên, không hoàn toàn đúng khi cho rằng hệ thống luật dân sự không áp dụng giả định vô tội.
Các nước theo luật thông thường rất coi trọng nguyên tắc tố tụng khi xét xử. Đây là nguyên tắc được đề cập trong Tu chính án thứ 5 và 14 của Hoa Kỳ. Nội dung chính của nguyên tắc đề cập đến ba yêu cầu chính: vị thế bình đẳng của các bên để làm chứng trước tòa; yêu cầu các phiên tòa được tiến hành bởi các thẩm phán độc lập có đủ năng lực, xét xử công bằng và bồi thẩm đoàn công bằng; và luật phải được đưa ra để những người hợp lý có thể hiểu thế nào là một hành vi phạm tội.
Hệ thống luật dân sự dựa trên hệ thống xét xử, do đó, trong các vụ án hình sự, các thẩm phán chủ yếu dựa vào luật định, kết quả của cơ quan điều tra, thủ tục xét xử để đưa ra phán quyết trước tòa. Nếu trong thông luật, các thẩm phán đưa ra các quy phạm pháp luật cho một vụ tranh chấp cụ thể thì trong dân luật, các quy phạm pháp luật đặt cơ sở để các thẩm phán ra quyết định, hay nói cách khác, các thẩm phán dân sự trước hết tìm cách giải quyết thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Trong giải thích văn bản quy phạm pháp luật, thẩm phán giải thích theo ngữ nghĩa của luật, nhưng vẫn tôn trọng ý chí của nhà lập pháp.
Tòa án của các quốc gia thông luật được coi là cơ quan lập pháp thứ hai, hoặc cơ quan lập pháp thứ hai. Ngược lại, ở các nước có luật dân sự truyền thống, chỉ có nghị viện mới có quyền làm luật, còn tòa án chỉ là cơ quan áp dụng luật.
Ở các quốc gia thông luật, hầu hết các thỏa thuận quốc tế không phải là luật nội địa / nội địa. Chúng chỉ có thể được áp dụng bởi các tòa án sau khi cơ quan lập pháp đã hệ thống hóa các thỏa thuận quốc tế. Các quốc gia có truyền thống dân luật thì khác, ví dụ như ở Thụy Sĩ, các điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp như một phần của luật trong nước, do đó các tòa án có thể áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế.
4. Với vai trò của luật sư và thẩm phán, bằng chứng:
Bởi vì tiền lệ là nguồn cơ bản của luật Anh-Mỹ, đặc biệt là do truyền thống coi trọng bằng chứng, các luật sư và thẩm phán rất tôn trọng nó. Luật dân sự, vì văn bản luật là nguồn chính, và vì tập quán “phán quyết trong hồ sơ” – nơi mà quá trình điều tra phụ thuộc nhiều vào kết quả của cơ quan điều tra, nên luật sư ban đầu được tôn trọng hơn ở các nước luật dân sự. Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ. Thẩm phán ở các nước theo luật dân sự chỉ được thực hiện hoạt động xét xử, không được tham gia vào hoạt động lập pháp, không thể tạo ra hệ thống và quy phạm pháp luật. Có hai loại luật sư ở Anh: Luật sư và Luật sư. Các thẩm phán được chọn trong số những người tranh tụng, không phải theo nhiệm kỳ.
Các thẩm phán luật dân sự được đào tạo theo một chương trình riêng biệt và họ thường không phải là luật sư trước đây. Nhưng trong thông luật, các thẩm phán hầu hết được rút ra từ các luật sư rất nổi tiếng.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật có nhiều mặt, cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ yếu được xác định là do quá trình phát triển của các cuộc cách mạng tư sản khác nhau. Tính chất và mức độ của các cuộc cách mạng tư sản ở các nước khác nhau, có nước phản đối hoàn toàn chế độ phong kiến, có nước thì không. [1]
Nói đến hệ thống pháp luật tư sản thì hai hệ thống pháp luật trên là hai hệ thống pháp luật lớn, nhưng ngoài hai hệ thống pháp luật này còn có hệ thống pháp luật của các nước Hồi giáo, hệ thống pháp luật Bắc Âu … >
Kể từ cuối thế kỷ 20, các quốc gia về luật dân sự đã trải qua nhiều thay đổi. Chẳng hạn, không còn chỉ dựa vào luật dân sự mà luật học, các văn bản dưới luật và các nghiên cứu học thuyết tư pháp ở các nước này cũng được coi là những nguồn luật quan trọng. Luật dân sự cũng đã được bổ sung và sửa đổi, đặc biệt là ở Đức (còn được gọi là bgb).
Tải xuống bộ câu hỏi ôn tập về các tiểu bang và lý thuyết pháp lý
[pdf] Câu hỏi ôn tập lý thuyết về nhà nước và pháp lý
Nếu quá trình tải tài liệu bị gián đoạn do đường truyền không ổn định, vui lòng để lại email trong phần Nhận xét bên dưới bài viết để nhận tài liệu. Chúng tôi xin lỗi vì đã mang đến cho bạn sự bất tiện!
& gt; & gt; & gt; Xem Thêm: 102 Câu hỏi về Lý thuyết Nhà nước và Pháp lý Đúng và Sai
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
Lời kết: Trên đây là bài viết Câu hỏi ôn tập lý luận nhà nước và pháp luật (có đáp án) [1-2021]. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn