Cùng xem Cách mạng khoa học-công nghệ và tác động của nó đến con người và xã hội Việt Nam trên youtube.
pgs.tskh. luong dinh hai
viện nghiên cứu con người, viện khoa học xã hội Việt Nam
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay (cmkhcn) là một trong những đặc trưng cơ bản của thế giới từ những năm 1950 đến nay. cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư), được nhắc đến với tần suất cao trong những năm gần đây [1], thực chất là sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp, diễn ra từ giữa thế kỷ 20 đến nay. cmkhcn ngày càng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên toàn thế giới, thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nền tảng khoa học của cuộc cách mạng này trước hết là những khám phá vĩ đại trong lĩnh vực vật lý và hóa học cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 20, khai sinh ra cơ học lượng tử và sau đó là các ngành khoa học hiện đại. cmkhcn hiện đại là sự tích hợp, kết hợp trong một quá trình duy nhất của các quá trình cách mạng về khoa học, kỹ thuật, công nghệ và tác động mạnh mẽ đến ngành, trong đó quá trình cách mạng về tiến bộ khoa học, giữ vai trò chủ đạo, quyết định các quá trình kỹ thuật, công nghệ và kinh tế. .công nghiệp. do đó, chúng cũng có vai trò chủ đạo, quyết định phương hướng, quy mô và tốc độ phát triển sản xuất. nghiên cứu khoa học được công nghiệp hóa, tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sản xuất trở thành nơi ứng dụng thực tiễn của tri thức khoa học. tri thức khoa học trở thành cơ sở lý luận cho sản xuất, quản lý và phát triển xã hội ở tầm vi mô, vĩ mô và cả ở quy mô toàn cầu. Nhờ đó, tốc độ phát triển của công nghiệp, sản xuất và xã hội ngày càng phát triển với quy mô và tốc độ ngày càng nhanh.
Trong xã hội ngày nay, các phát minh kỹ thuật, công nghệ và thậm chí cả các ngành công nghiệp hiện đại đã ra đời từ các phòng nghiên cứu và thí nghiệm [2]. Việc rút ngắn khoảng cách thời gian giữa khoa học, kỹ thuật, công nghệ và thực tiễn áp dụng vào sản xuất là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của cách mạng công nghiệp hiện nay, đồng thời là một trong những đặc điểm quy định quy luật tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong thời đại hiện tại. [3]. cmkhcn tạo ra sự tích hợp không chỉ trong khoa học mà còn trong kỹ thuật, công nghệ và sản xuất. Nếu trước đây khoa học đứng ngoài lề, cùng với kỹ thuật và công nghệ khác xa với sản xuất thì ngày nay chúng hòa trộn và thâm nhập cho đến khi trở thành một khối thống nhất. nhiều công nghệ sản xuất mới gắn với phát minh trong khoa học cơ bản, đổi mới công nghệ trong nghiên cứu và phòng thí nghiệm.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ làm nảy sinh ra các ngành khoa học mới, tạo ra cuộc cách mạng công nghiệp 3.0, 4.0 với nhiều ngành mới, phát triển nhanh chóng, có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ nền kinh tế, ngành công nghiệp và đời sống xã hội. Cũng biến mất nhiều ngành công nghiệp được tạo ra trước đây từng thống trị ngành sản xuất. cùng với việc sử dụng công nghệ kết hợp nhiều thành phần trong cùng một chu kỳ sản xuất thay vì công nghệ đơn thành phần đang tạo ra bước ngoặt phát triển của lực lượng sản xuất, tạo ra hai cuộc cách mạng. cuộc cách mạng công nghiệp và do đó đang biến đổi toàn bộ nền sản xuất xã hội nói chung.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra với tốc độ ngày càng sâu, rộng và nhanh hơn, dường như diễn ra đồng thời trên phạm vi toàn cầu, đến mức không thể đoán trước được “hình hài” trong thời gian ngày mai. thể hiện đồng thời, đồng thời, cộng hưởng, đột biến, bất ngờ, dữ dội, quy mô lớn, ảnh hưởng sâu rộng so với các giai đoạn lịch sử trước đây đối với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Thông tin và tri thức khoa học ngày càng trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng của sản xuất và đời sống xã hội, ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tăng trưởng kinh tế, xã hội, trở thành động lực phát triển của cả sản xuất cũng như con người và xã hội. cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra một môi trường xã hội đặc biệt. đó là một môi trường thông tin, trong đó lao động thể chất được thay thế bằng lao động trí óc với những phẩm chất và năng lực trí óc, đòi hỏi sự sáng tạo, độc đáo và cá nhân hóa. thông tin và tri thức khoa học trở thành điều kiện cần, là môi trường, yếu tố cấu thành và nội dung của quá trình sản xuất, nguồn tạo ra của cải vô tận và là nguồn lực đặc biệt để phát triển con người và xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo tiền đề cho nền sản xuất xã hội trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 3.0, vượt lên trên trình độ sản xuất hàng loạt, đặc trưng của nền sản xuất cũ trước đây, với ý nghĩa là sản xuất hàng loạt không còn thống trị, phổ cập. . nền sản xuất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ hướng tới nhu cầu cá nhân – cá nhân, duy nhất và cụ thể. nó đang từng bước thay đổi nền sản xuất xã hội trên quy mô toàn cầu để vận hành theo những nguyên tắc mới: tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa, đồng thời hóa, phân quyền, phi phân cấp và tập trung hóa phi tập trung (A. Toffler, 1992: Burlaxki f.m., 2009).
xuất hiện từ giữa thế kỷ 20, đến nay cuộc cách mạng đã trải qua hai giai đoạn. thời kỳ thứ nhất kéo dài từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến những năm 1970. Thời kỳ này thường được gọi là cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, thời kỳ từ những năm 1980 đến nay được gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ khoa học công nghệ. Hiện nay, ở một số nước, trong một số học giả [4], thuật ngữ cách mạng khoa học – kỹ thuật vẫn được dùng để bao hàm giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng đã phân tích ở trên. do đó, họ không dùng thuật ngữ cách mạng khoa học – công nghệ hay cách mạng khoa học – công nghệ mà dùng thuật ngữ cách mạng khoa học – kỹ thuật để chỉ những phát triển mang tính cách mạng trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ từ giữa thế kỷ 20 đến nay hiện tại. . ở nước ta thuật ngữ cách mạng khoa học kỹ thuật được sử dụng từ năm 1960 đến năm 1976, từ năm 1976 đến năm 1991 khái niệm cách mạng khoa học-kỹ thuật được sử dụng, từ năm 1991 đến nay khái niệm cách mạng khoa học kỹ thuật được sử dụng. và cuộc cách mạng công nghệ. Chúng tôi cho rằng nên thống nhất khái niệm cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vì nó tạo ra cả cách mạng công nghiệp 3.0 và cách mạng công nghiệp 4.0, khi nó bao gồm các quá trình cách mạng về khoa học và công nghệ, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp là không thể tách rời.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ là một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới đương đại. những thay đổi trong đời sống xã hội và con người đều gắn liền với cuộc cách mạng công nghệ. tốc độ phát triển của con người và sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, cũng như khu vực và thế giới ngày càng phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. chi phối ngày càng mạnh mẽ những thay đổi trong đời sống xã hội và con người (tuổi thọ, bệnh tật, sức khoẻ, sắc đẹp, …) ở mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Sức mạnh quân sự, quy mô và tốc độ của các cuộc chiến tranh cũng như sức mạnh tấn công và phòng thủ của các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc. cuộc cách mạng đó quyết định các phương hướng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, quan hệ quốc tế, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe và việc làm,… trên phạm vi toàn cầu và từng quốc gia. .
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ cũng tác động ngày càng mạnh mẽ đến các vấn đề toàn cầu. Một mặt, nó là công cụ, phương tiện hữu hiệu để có thể giải quyết các vấn đề toàn cầu ngày càng trở nên căng thẳng đối với nhân loại. mặt khác, nó còn làm gia tăng căng thẳng của một số vấn đề toàn cầu, thậm chí theo một số học giả, nó có thể làm nảy sinh những vấn đề toàn cầu mới. hậu quả tiêu cực do sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại (cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái, vũ khí hủy diệt hàng loạt, …) đối với sự tồn vong và tương lai của mỗi con người và của nhân loại nói chung.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ có vai trò đặc biệt trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các quốc gia trên thế giới, nhưng đồng thời cũng trở thành một trong những thách thức khó khăn đối với các nước đang phát triển phải vượt qua vì các nước phát triển có tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh có thể tiến vào tương lai với tốc độ nhanh hơn nhiều so với các nước có tiềm lực khoa học và công nghệ yếu hơn. theo cách đó, nó ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của con người ở các nước đang phát triển và đã phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ một mặt tác động trực tiếp đến đời sống xã hội và con người. một cách gián tiếp hơn, nhưng mạnh mẽ hơn, nhanh chóng và sâu sắc hơn, nó tác động đến con người và xã hội thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. thông qua công nghệ, thông qua các sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp, các phát minh khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới đi vào sản xuất và đời sống của nhân dân. khoa học thực sự trở thành động lực của sản xuất và phát triển xã hội, tạo ra sản phẩm và công nghệ mới, thúc đẩy sản xuất, con người và xã hội phát triển nhanh chóng.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay. Cuộc cách mạng công nghiệp là kết quả của sự phát triển rất nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay, các sản phẩm mới, công nghệ mới được tạo ra với tốc độ nhanh chóng, có tính cách mạng và được ứng dụng ngay vào sản xuất, đời sống con người và xã hội, nhanh chóng tạo ra những thay đổi trên thế giới, những thay đổi lớn, những thay đổi mang tính cách mạng trong các lĩnh vực đó. nền tảng tri thức của cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại là cuộc cách mạng của khoa học và công nghệ.
Xem Thêm : "Tắm Biển" trong Tiếng Anh là gì: Định Nghĩa, Ví Dụ Anh Việt
lịch sử loài người đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu với sự ra đời của đầu máy hơi nước jame watt vào giữa thế kỷ 19 và kéo dài đến giữa thế kỷ 19 với nền tảng công nghệ là những phát minh cơ bản như động cơ hơi nước và công nghệ cơ khí như: máy kéo sợi, kéo sợi. máy móc, dệt, lò luyện thép, tàu thủy và tàu hơi nước sử dụng than. Nó chỉ diễn ra ở một số nước Tây Âu như Anh, Pháp, Ý, Hà Lan. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai từ giữa thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 20 dựa trên những phát minh về động cơ đốt trong sử dụng dầu mỏ, động cơ diesel, ô tô, máy bay, máy phát điện và động cơ điện, điện từ. sóng. cơ sở công nghệ là công nghệ điện từ. Nó chủ yếu diễn ra ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ, đặc biệt là ở Tây Âu, Hoa Kỳ, Liên Xô và Nhật Bản.
<3, năng lượng nguyên tử, vệ tinh nhân tạo, tàu vũ trụ, máy bay siêu thanh, và nhiều loại công nghệ mới như công nghệ vi sinh, công nghệ gen, công nghệ thông tin, công nghệ số. cơ sở công nghệ rộng hơn so với các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, nhưng cơ bản và chủ yếu là công nghệ điện từ, công nghệ sinh học và công nghệ số. tạo ra những bước nhảy vọt về năng suất lao động, về quy mô và tốc độ phát triển sản xuất, làm thay đổi mạnh mẽ nhất đời sống con người và xã hội.
hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, lực lượng sản xuất của xã hội đã phát triển nhảy vọt, khoảng cách thời gian giữa phát minh khoa học và ứng dụng thực tiễn ngày càng ngắn, vòng đời của công nghệ và do đó, vòng đời của các sản phẩm cũng được rút ngắn. khối lượng thông tin và kiến thức tăng lên theo cấp số nhân. nhiều ngành công nghiệp truyền thống dần bị loại bỏ, nhưng các ngành công nghiệp mới xuất hiện nhanh chóng hơn và ra đời không phải trực tiếp từ sản xuất mà từ các phòng thí nghiệm, từ các lý thuyết khoa học. công nghệ laser, công nghệ nano, công nghệ kỹ thuật số, … là những ví dụ điển hình. Với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, con người tiếp tục được giải phóng khỏi các chức năng mà họ thực hiện, bao gồm giao thông, năng lượng và công nghệ. việc giải phóng con người khỏi chức năng quản lý đã mang lại những tiến bộ thực sự, vì nó đã tạo ra các loại rô bốt, các dây chuyền sản xuất tự động hóa. Sự giải phóng con người khỏi hàm logic cũng bắt đầu từng bước với sự xuất hiện của các hệ thống máy tính, đặc biệt là với sự ra đời của Internet và các thiết bị thông minh.
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên và theo đà phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, trên cơ sở giai đoạn phát triển mới của cmkhcn, nó ra đời với những công nghệ mới, thiết bị mới, trước hết là trí tuệ nhân tạo, 3d in ấn, công nghệ tự trị, thiết bị đầu cuối tất cả trong một, internet vạn vật, điện toán đám mây – dữ liệu lớn, công nghệ sinh học liên kết thế hệ mới, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hóa robot thế hệ mới có “trí tuệ”, … nền tảng công nghệ chính của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự tích hợp công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và trí tuệ nhân tạo. trong các giai đoạn sau, cơ sở công nghệ của nó có thể được bổ sung. cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra những bước đột phá mới để giải phóng con người khỏi các chức năng điều hành và quản lý, đồng thời sẽ tạo ra những bước tiến dài để giải phóng con người khỏi các chức năng logic khi công nghệ trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng rãi. nó thực sự biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong giai đoạn phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang từng bước đưa con người ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, biến họ thành chủ thể sáng tạo thực sự, tạo tiền đề vật chất và lực lượng sản xuất mới cho một nền kinh tế mới, được đặt với những tên gọi khác nhau . , đưa nhân loại bước sang một giai đoạn phát triển mới với các tên gọi khác nhau (kinh tế số, kinh tế mềm, kinh tế tri thức), xã hội thông tin, xã hội tri thức,…).
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển không chỉ của công nghiệp, sản xuất mà còn của con người và xã hội. Trong thời đại hiện nay, một quốc gia có tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh sẽ có tốc độ phát triển nhanh về mọi mặt, có điều kiện và cơ hội để phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại. Do sự phát triển của khoa học công nghệ, không chỉ các lý thuyết cụ thể trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ thuật thay đổi mà một số lý thuyết về xã hội và con người cũng buộc phải thay đổi. Ví dụ, trước đây trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Liên hiệp Xô viết và của các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, chỉ có lý thuyết ưu tiên phát triển khu vực i (sản xuất tư liệu sản xuất) hơn khu vực ii (sản xuất tư liệu sản xuất). sản xuất). tiêu dùng) cần ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. nhưng trong thời đại cách mạng công nghiệp, thế giới đã chuyển sang áp dụng lý thuyết khu vực i (sản xuất con người) quyết định khu vực ii (sản xuất vật chất); lý luận về vai trò quyết định đối với sự phát triển của giáo dục và đào tạo quốc gia và nhiều lĩnh vực khác. “Làm người” bao gồm hai nội dung: thứ nhất là tạo ra những con người có thể chất và sức khỏe tốt, không bệnh tật, thể lực tốt. điều này phụ thuộc vào quá trình nuôi dưỡng thai nhi, bao gồm cả sức khỏe tiền hôn nhân của bố mẹ. hai là đào tạo những con người có kỹ năng, nghiệp vụ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức, trí tuệ, tâm huyết với công việc và hoạt động nói chung. điều này phụ thuộc vào quá trình cải cách bao gồm giáo dục và đào tạo theo nghĩa rộng. cách thức nuôi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ hiện nay sẽ quyết định quy mô, nhịp độ, định hướng, chất lượng phát triển sản xuất và phát triển xã hội trong 20 đến 30 năm tới. vai trò của nguồn nhân lực, của giáo dục và đào tạo trong thời đại công nghệ tiến bộ là ở đó. vì vậy, trong thời kỳ hiện đại ngày nay, giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải là động cơ cơ bản và là quốc sách hàng đầu của các quốc gia.
Trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cả cách mạng công nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư, vòng đời của công nghệ sản xuất ngày càng ngắn nên vòng đời của sản phẩm cũng phải rút ngắn lại. tốc độ phát triển của công nghệ, công nghiệp, sản xuất, đặc biệt là của lực lượng sản xuất được phản ánh trong chu kỳ sống của công nghệ. vòng đời của công nghệ sẽ là một trong những quy mô phát triển của ngành và của lực lượng sản xuất. Chu kỳ sống của công nghệ càng ngắn thì chu kỳ sống của sản phẩm càng ngắn, tốc độ vận động của đời sống xã hội và con người cũng tăng lên. điều đó lại làm đảo lộn hàng loạt giá trị, quy tắc và chuẩn mực ứng xử của con người trong xã hội. Vào giai đoạn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những xáo trộn trong đời sống xã hội và văn hóa sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn, thậm chí có thể tạo ra những xung đột về văn hóa ngay trên chính mảnh đất mới bắt đầu, sử dụng thành quả của các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư. Điều này cần được chú trọng nhiều trong việc quản lý, xây dựng và hoàn thiện các thể chế văn hóa và xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ không chỉ tạo ra những tiến bộ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội mà điều quan trọng là nó làm cho sự phát triển của các lĩnh vực này diễn ra với tốc độ khác nhau, giữa các lĩnh vực và các quốc gia, khu vực khác nhau. Một mặt, nó vừa tạo cơ hội cho các nước đang phát triển nhanh chóng thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, nếu biết tận dụng những thành tựu của Liên Xô, biến nó thành đầu tàu kinh tế, xã hội và con người thực sự. đang phát triển. nhưng sẽ là một thách thức vô cùng khó vượt qua, làm gia tăng nhanh chóng khoảng cách tụt hậu vốn đã có của các nước đang phát triển, vì các nước phát triển có tiềm lực khoa học, kỹ thuật và công nghệ, có nền công nghiệp mạnh sẽ tiến vào tương lai với tốc độ nhanh hơn bao giờ hết. rất khó để các nước đang phát triển có được tiềm năng đó trong một thời gian ngắn. Nghịch lý “thỏ và rùa” ngày càng trở thành hiện thực khắc nghiệt đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ do điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội không xuất hiện ở Việt Nam nên các cuộc cách mạng công nghiệp cũng không xuất hiện trong lịch sử phát triển của đất nước. cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở châu Âu khi nước ta còn dưới chế độ phong kiến với ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng công giáo, gạt khoa học kỹ thuật, công nghiệp và thương mại sang một bên. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai cũng diễn ra ở châu Âu, khi nước ta còn bị thực dân Pháp đô hộ, chỉ có một số sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp này được thực dân Pháp đưa sang nước ta để phục vụ cho chính quyền thuộc địa. cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra trên thế giới khi đất nước phải tiến hành các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập dân tộc, chưa có điều kiện tiếp nhận và phát huy cuộc cách mạng công nghiệp. Trong những thập kỷ gần đây chúng ta coi cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật, sau đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ là chìa khóa, động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế, xã hội và con người. nhiều thành tựu, sản phẩm của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được đưa vào thực tiễn ở nước ta, góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, con người. tiềm lực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp từng bước vươn lên, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế, xã hội và con người.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ mà con đẻ mới nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bắt đầu diễn ra trên thế giới là thách thức và cơ hội lớn đối với dân tộc Việt Nam hiện nay. Chưa bao giờ trong lịch sử nước ta lại có những điều kiện và tiền đề thuận lợi như ngày nay về chính trị, xã hội, kinh tế, nhân lực và quan hệ quốc tế để có thể vận dụng và thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nếu chúng ta biết tận dụng và sử dụng có hiệu quả những điều kiện, tiền đề hiện có thì không chỉ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng mà cả cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nói chung sẽ có thể mở ra và được thực hiện và mang lại những hiệu quả tích cực trong nước ta trong những năm tới. nhiều thập kỷ, có thể trở thành công cụ quyết định để rút ngắn sự tụt hậu so với các nước phát triển trên thế giới.
trong ba thập kỷ qua của thế kỷ 20, chính nhờ sử dụng hiệu quả các thành tựu của công nghệ hiện đại và cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 mà các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và các vùng lãnh thổ khác của Đài Loan đã có những bước phát triển ngoạn mục. Ấn Độ hiện cũng là một trong những quốc gia rất thành công trong việc tiếp nhận và ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại để phát triển một số lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp phần mềm, công nghiệp ô tô, công nghiệp văn hóa …, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới chỉ ra là do họ không biết áp dụng và phát triển công nghệ hiện đại đã phát triển trong ba thập kỷ cuối thế kỷ 20.
Nếu Việt Nam không tận dụng những cơ hội do công nghệ hiện đại tạo ra để phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì Việt Nam có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn và bị đẩy ra rìa của sự phát triển toàn cầu. đây là một nguy cơ thực sự và ngày càng gia tăng mà nước ta sẽ ngày càng khó vượt qua trong những thập kỷ tới. Cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại, ở một khía cạnh nào đó, đang tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa các nước phát triển và đang phát triển, trước hết là về trình độ công nghệ và trình độ của lực lượng sản xuất. từ đó nó cũng tạo ra những vấn đề xã hội to lớn và khó khăn ở các nước đang phát triển cũng như trong quan hệ giữa các nước đang phát triển và phát triển. Nếu nước ta không tập trung nhất quán, lâu dài và có hiệu quả cuộc cách mạng công nghiệp nói chung và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư nói riêng, thách thức này có thể gây ra những hậu quả khó lường cho các thế hệ người dân và cho mọi thành viên trong xã hội. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại sẽ phải là cứu cánh cho đất nước và nhân dân ta xóa đói nghèo, lạc hậu, xóa bỏ tụt hậu với thế giới phát triển.
Yếu tố quyết định trong việc ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại không phải là nguồn lực tài chính, hệ thống máy móc thiết bị, điều kiện tự nhiên và lịch sử văn hóa, mặc dù chúng vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng mà chính là nguồn nhân lực và thể chế. Tuy nhiên, khi nói đến nguồn nhân lực, không phải nói đến nguồn nhân lực nói chung mà là nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quản lý và kinh doanh. đây là những lực lượng chủ yếu đóng vai trò định hướng, động lực thúc đẩy việc xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của quốc gia. Nếu không có nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực đó thì không thể ứng dụng có hiệu quả các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp chứ chưa nói đến việc tiếp nhận công nghệ hiện đại ở nước ta. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này không phải là những người có bằng cấp cao, các vị trí quản lý trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội mà là những chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực. kinh nghiệm, năng lực, tài năng của họ đã được thực tiễn khẳng định và đóng góp vào sự phát triển của khoa học, công nghệ và công nghiệp. đây là đội quân chính của cmkhcn, từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư sắp tới.
tuy nhiên, việc sử dụng, bao gồm cả việc thuê, đãi ngộ và sẵn có nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghiệp, phụ thuộc vào các tổ chức khoa học, công nghệ và công nghiệp của quốc gia. nhưng thể chế phụ thuộc vào nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực quản lý, cụ thể ở đây là quản lý khoa học, công nghệ, kỹ thuật và công nghiệp, trong các thể chế, tổ chức, hoạt động và ứng dụng của khoa học, kỹ thuật và Công nghệ. . Họ là người xây dựng quy trình, tiêu chuẩn, luật pháp, chính sách và trực tiếp quản lý việc ứng dụng và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của các tổ chức, công ty, cơ sở đào tạo, bệnh viện, viện, đơn vị sản xuất, dịch vụ, v.v. hoạt động công nghệ có vai trò quyết định cả về định hướng, quy mô và tốc độ phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghệ của ngành công nghiệp quốc gia. Đây là một loại hình thiết chế đặc biệt vừa có bản chất thị trường vừa mang tính chất phi thị trường. sự cực đoan trong việc sáng tạo và áp dụng thể chế, hoặc nghiêng quá nhiều về thị trường, hoặc nghiêng quá nhiều về phi thị trường, không có tác dụng thúc đẩy, nhưng có tác dụng hạn chế hoặc thậm chí hủy hoại tiềm năng của khoa học, kỹ thuật, và công nghệ. của đất nước.
ở nước ta hiện nay, qua hàng chục năm phát triển, một mặt đã xây dựng và phát triển được đội ngũ nhân lực chất lượng cao chưa từng có trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ. nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước gắn với nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh, đội ngũ nhân lực chất lượng cao đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới hiện nay của Liên Xô, nhất là trong giai đoạn cách mạng. ngành công nghiệp thứ tư sắp ra mắt.
Mặt khác, việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đòi hỏi phải có một bước chuyển đổi thể chế quản lý phù hợp và đầy đủ để tạo tiền đề cho sự phát triển của các các lĩnh vực, bao gồm các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp. Ngoài ra, bản thân cuộc cách mạng công nghiệp cũng đòi hỏi phải thường xuyên hoàn thiện thể chế quản lý để có thể áp dụng những thành tựu đã đạt được và thúc đẩy sự phát triển của ngành. Nếu không có cải cách và cải tiến thể chế thường xuyên thì không thể thúc đẩy sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp. Điều này cho phép chúng ta nói rằng trong thời đại công nghiệp hóa, con người phát triển, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực hoạt động khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp có ý nghĩa hết sức quyết định đối với sự phát triển của đất nước, sự phát triển của cách mạng. công nghiệp và cuộc cách mạng công nghiệp. Đồng thời, chính việc ứng dụng tốt các thành tựu và thúc đẩy phát triển công nghệ sẽ thúc đẩy sự phát triển của con người và xã hội. cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang mang lại cơ hội cho đất nước và con người Việt Nam, nhưng nếu không tích cực, chủ động, nắm bắt thời cơ, không nắm bắt thời cơ thì cơ hội sẽ không lặp lại, tốc độ phát triển của nhân loại với đầu tàu và cuộc cách mạng công nghiệp sẽ đi qua chúng ta, người dân và đất nước của chúng ta sẽ bị bỏ lại phía sau xa hơn.
Xem Thêm : Nguyễn Quốc Tư: Người kỹ sư "tay ngang" của QTEDU – Du Học
tham khảo:
1. a. toffler 1992. Làn sóng thứ 3.h: nxb. thông tin lý luận.
2. burlaxki f.m. 2009. tư tưởng mới: đối thoại và quan điểm về cuộc cách mạng công nghệ trong cải cách của chúng ta. Mét. nxb. chính trị.
3. “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam”; văn kiện hội nghị khoa học viện khoa học xã hội việt nam, ủy ban kinh tế thế giới và tổ chức các quốc gia thống nhất tại Hà Nội ngày 25 tháng 11 năm 2016.
4. klaus schwab. 2016. cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; gin: wef.
5. Lương Việt Nam. 1997. hiện đại hóa xã hội trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật; moscow: một giá sách logic.
6. lương việt hải. 2001. Hiện đại hóa xã hội – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. hanoi: nhà xuất bản. khoa học xã hội.
7. http://cafebiz.vn/ba-pham-chi-lan-canh-bao-cuoc-cach-mang-viet-nam-40-se-chi-la-ao-tuong-neu-chung -ta-van-thieu-nhung-yeu-to-nay-20170410175620015.chn.
8. http://vietnamnet.vn/vn/thong-tin-truyen-thong/cach-mang-cong-nghiep-4-0-va-nhung-van-de-o-viet-nam-383787 .html # inner-article 13/7/2017 14:36 gmt + 7.
9. http://tinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/quoc-te/su-sup-do-cua-nhung-tuong-dai-cong-nghe-nhat-ban-3580418.html, 5 / 6/2017 | 17:36 GMT + 7.
10. https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-10-skills-you-need-to-thrive-in-the-fourth-industrial-revolution/19 Jan 2016.
[1] ở nước ta, theo thống kê của nhóm dự án kx. Từ 01.11 / 16-20 đến nay, khoảng 200 bài báo và khoảng 30 hội thảo liên quan đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã được đăng tải trên các phương tiện truyền thông.
[2] Ví dụ, công nghệ laser, vi sinh, công nghệ gen, công nghệ nhiệt độ thấp, công nghệ bán dẫn, công nghệ kỹ thuật số, công nghệ nano, v.v., tất cả đều được sinh ra từ phòng thí nghiệm và xu hướng. Xu hướng sẽ ngày càng có nhiều công nghệ và ngành công nghiệp mới ra đời từ các phòng thí nghiệm và nghiên cứu.
[3] Trong thế kỷ 18 – 19, khoảng cách này trung bình là 60 – 70 năm, thế kỷ 20 là khoảng 30 năm, từ những năm 1990 đến nay trung bình khoảng 3 năm. Ý tưởng về điện thoại mất 74 năm, radio 38 năm, truyền hình 13 năm, internet 3 năm.
[4] Ví dụ ở Nga, nhiều học giả coi cả hai giai đoạn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nói trên về cơ bản là những khám phá khoa học cơ bản làm nền tảng cho cuộc cách mạng này. từ đó đến nay không có gì thay đổi nên họ không sử dụng thuật ngữ cách mạng khoa học và công nghệ, mặc dù vẫn tiếp tục sử dụng khái niệm cách mạng công nghệ mà chỉ sử dụng thuật ngữ cách mạng khoa học – kỹ thuật. ngay cả từ điển triết học 4 tập mới xuất bản năm 2011 vẫn không có khái niệm cách mạng khoa học và công nghệ mà chỉ có khái niệm cách mạng khoa học – kỹ thuật.
nguồn: tạp chí nghiên cứu con người số 5 (92), 2017
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
Lời kết: Trên đây là bài viết Cách mạng khoa học-công nghệ và tác động của nó đến con người và xã hội Việt Nam. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn