Cùng xem Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương trên youtube.
Tư Xương là bậc thầy trào phúng của văn học Việt Nam. Bên cạnh những bài thơ trào phúng sắc bén, lấy tiếng cười làm vũ khí để giễu cợt, phê phán sâu sắc những bộ mặt xấu xa, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chan tình cảm của một nhà Nho nghèo với thế sự. Tình yêu và tình yêu sâu sắc cho cuộc sống.
“Người Vợ Yêu” là bài cảm động nhất trong các bài thơ trữ tình của Du Pont. Đây là bài thơ tâm sự, nhưng cũng là bài thơ thế tục. Đoạn thơ chan chứa tình yêu tha thiết của nhà thơ dành cho người vợ hiền. Sáu khổ thơ đầu thể hiện hình ảnh người vợ đảm đang, đảm đang, đảm đang.
Nếu vợ của Nguyễn Khuyến là một người “làm nhiều việc, lưng đeo gậy, thắt lưng chiêng, chân đạp, việc gì cũng nhờ em” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà là một người phụ nữ:
“Dòng sông mẹ quanh năm buôn bán,
Một chồng nuôi năm con”
“Buôn quanh năm” là một kịch bản kinh doanh đen tối, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, không có ngày nghỉ. Bà Tú “làm ăn trên dòng sông mẹ”, nơi đất bồi ba mặt là nước bao bọc, làm ăn lâm nguy. Từ “Mẹ sông” diễn tả cuộc sống “một chồng nuôi năm con” bất kể nắng mưa, vất vả, “một chồng nuôi năm con”.
Gánh nặng gia đình đè lên vai người mẹ và người vợ. Thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, tiền… chứ ai “đếm” con lại “đếm” chồng. Đoạn thơ tự sự chứa đựng sự thấm thía về một gia đình chịu nhiều gian khổ: đông con, chồng “ăn cơm vợ”.
Xem Thêm : Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê em
Có thể nói, trong hai câu thơ của phần tựa, Du Pont đã ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ cần cù, dũng cảm. Phần thực, làm nổi bật bức chân dung của Madame Dupont, mỗi sáng và tối. Ngược xuôi như “cò đất” “lặn lội” đến nơi “xa xôi” làm ăn. Ngôn ngữ thơ tăng thêm làm nổi bật nỗi vất vả của người vợ.
Lời nói như nét vẽ, trường màu nối tiếp nhau, bổ sung cho nhau; Khó khăn trong việc tìm kiếm một dòng sông trong “Sông mẹ” dường như không thể nói nên lời! Hình ảnh “con cò” trong ca dao cổ: “Con cò qua bờ sông…”, “Con cò đi hứng mưa…”, “Con cò, chiếc kiềng, giàn …” In lại từ những vần thơ xương bằng ngôn ngữ địa phương qua “thân cò” Hình ảnh ấy mang đến cho người đọc nhiều liên tưởng cảm động về Batu, cũng như thân phận vất vả, éo le của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
“Lặn trong vùng hoang dã
Buổi sáng mùa đông bên dòng nước”
“eo seo” là từ tượng thanh chỉ những cuộc đòi kéo dài, quấy rối qua điện thoại: diễn tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã trong lúc “thuyền đã ở bến nước”. vắt”. Một đời “bơi lội”, một đời làm ăn “nghèo khó”. Nghệ thuật đặc sắc làm nổi bật hình ảnh con người cùng cực.
Bát cơm manh áo của bà ngoại là đủ cho “một người nuôi năm đứa con”. “Bơi” trong gió và mưa, “bơi” trong nắng, chiến đấu hết mình trong “eo”, và trả giá bằng mồ hôi và nước mắt trong khó khăn! Trong hai tiểu luận tiếp theo, DuPont đã vận dụng một cách sáng tạo hai thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm mưa mười” hài hòa, cân xứng, mang đậm màu sắc dân gian trong cảm nhận và ngôn ngữ. Biểu thức:
“Một số phận, hai khoản nợ, một số phận,”
Năm nắng, mười ngày gió mưa, dám chế ngự muôn loài. “
Xem Thêm : Lời chúc đầu tháng may mắn ý nghĩa, lời chúc tháng 12 hay nhất
“Phận” là định mệnh, là định mệnh, là “món nợ” của cuộc đời mà bà phải gánh và gánh. “Nắng” và “mưa” tượng trưng cho mọi khó khăn trở ngại. Số chữ trong bài thơ tăng dần: “Một…hai…năm…mười…làm nổi bật sự hi sinh thầm lặng của bà Tú vì ấm no hạnh phúc của chồng con”. làm”,… “Dám quản Công chúng”…giọng thơ đầy ngậm ngùi, ngậm ngùi, tự ái của người thương gia lận đận.
Tóm lại, với lòng biết ơn và khâm phục, trong sáu câu đầu, Du Pont đã phác họa một số nét rất giản dị và xúc động về hình ảnh người vợ hiền thục, đức hạnh của bà. Quý: Dũng cảm, cần cù, chịu khó, hy sinh thầm lặng vì hạnh phúc gia đình.
tu xương đã thể hiện một tài năng tuyệt vời trong việc sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Tiếng lóng, con số, từ song hành, thành ngữ và hình ảnh “con cò”… tạo ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương. Ở hai câu kết, Tupen dùng ngôn ngữ nói tục, chửi bậy. “Dòng sông mẹ” trong “Ngày tiễn hàng” rơi vào bài thơ một cách tự nhiên. Anh tự trách mình:
“Cha mẹ bạc mệnh,”
Có chồng cũng không sao! “
Tôi trách mình “ăn lương vợ” mà “sống đời đầu bạc”. Vai trò người chồng, người cha vô tích sự, vô tích sự, thậm chí “lạnh nhạt” với vợ con. Tôi tự trách mình quá nhiều! Như chúng ta đã biết, Du Ben có tài nhưng không nổi tiếng, thi cử giả tạo. Sống trong một xã hội “dở Tây, dở ta”, trong lời ăn tiếng nói của người nghèo, khi “anh nghèo anh cũng nằm”, nên nhà thơ tự trách mình và bạc đời.
Anh ấy không dành thời gian để “sâm panh vào buổi tối và sữa vào buổi sáng” để tôn vinh gia đình mình. Hai câu cuối vừa đa cảm vừa là thế buồn, là tiếng nói của một trí thức đầy cá tính. ‘Yêu đời, thương vợ con, thương người nghèo. Tư Bành thương vợ, thương mình: Nỗi đau mất mát của nhà thơ khi cuộc đời đổi thay! Bài thơ “Vợ yêu” được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt.
Ngôn ngữ thơ giản dị như tiếng nói hàng ngày của người bán hàng rong “Dòng sông mẹ” cách đây một thế kỷ. Các chi tiết nghệ thuật vừa là sự chọn lọc riêng (một bà với “chồng năm người con”) vừa là những nét khái quát sâu sắc (người đàn bà xưa). Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm: thương vợ thương mình, lo lắng cho gia đình thêm đau đáu với cuộc đời.
“Yêu vợ” là một bài thơ trữ tình đặc sắc của Du Pont viết về người vợ của mình, một người phụ nữ xưa nhiều đức hạnh.Hình ảnh bà Du được nhắc đến trong bài thơ rất gần gũi với mọi người. Mọi gia đình mẹ Việt Nam chị em. Du Pont chiếm một vị trí vinh dự trong văn học Việt Nam. Tên của anh ấy sẽ luôn ở cùng với Orphan và River.
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Top 10 Bài văn phân tích bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn