Cùng xem Top 5 mẫu phân tích bài thơ Ông đồ hay chọn lọc – Cảm nhận về bài thơ Ông đồ trên youtube.
phân tích bài thơ ong do vu dinh lien. hoatieu xin chia sẻ với các bạn bài tổng hợp phân tích bài thơ của thầy. làm cùng với các bài văn mẫu thảo luận về mr hay chi tiết. do, sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn học sinh.
- 8 bài văn mẫu thuyết minh về hoa đào có chọn lọc hay không vứt rác bừa bãi
- 7 bài văn mẫu thuyết minh về hoa đào hay chọn lọc
- 12 bài văn mẫu về hoa mai trong ngày tết rất hay
1. phân tích lược đồ của bài thơ mr. su
i. mở đầu
– trình bày bài thơ “ong do” của vu dinh lien
– Ngày xưa, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh đôi bánh chưng, mâm ngũ quả là những đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà các cụ già trên vỉa hè các con phố rất đông khách thuê, và hình ảnh đầu đội khăn xếp đã khắc sâu vào tâm trí người Việt, Trạng nguyên là một trong số đó. . . và theo thời gian, nét đẹp văn hóa ấy cũng dần mai một nên bản thân tác giả đã phải sám hối sáng tác bài thơ “ông đồ” để bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận của một lớp người và tiếc nuối cho một truyền thống cao đẹp của dân tộc.
ii. nội dung bài đăng
1. miêu tả chung về bài thơ
hình thức thơ: qua hình ảnh của mr. Bằng cách viết câu đối tứ, tác giả muốn bày tỏ nỗi tiếc thương sâu sắc đối với một lớp người tài hoa sinh ra trên đời nay đã gần đất xa trời và than thở một truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.
thiết kế: 3 phần
2. nội dung
a) nền nhân học suy đồi trong giai đoạn 1930 – 1945
khi nền văn minh phương Tây bắt đầu xâm lược nước ta. các kỳ thi học thuật đã bị bãi bỏ
– người thầy không còn giá trị, mất vị thế trong xã hội. giáo viên đã chuyển từ nghề cho chữ sang bán chữ.
trước khi “di tích tiếc và mòn của một thời đã qua” chạm đến vu dinh lien. anh viết lên những trang thư đầy trăn trở, gợi cho người ta nhiều suy ngẫm, khơi gợi bao cảm xúc bị lãng quên, giúp mọi người nhớ đến những di sản của dân tộc một thời là văn hiến oanh liệt của đất nước, nay bị bỏ rơi và lãng quên một cách tàn nhẫn.
bài thơ chỉ có 20 câu, tác giả tạo tình huống kéo dài theo thời gian với 3 tình huống của một con người: ông lão đang náo nức giữa mùa xuân, ông đang trầm ngâm trong nỗi cô đơn vắng khách, ông già đã vắng bóng. từ đó thể hiện tình cảm của tác giả: một vị khách không phải ngẫu nhiên.
b) ông già vẫn là khách
thời gian xuất hiện. hoa đào nở – vào mùa xuân – ông. bản đồ bằng giấy đỏ trên đường phố “để viết một câu ghép:
“Mỗi năm hoa đào nở
trên đường phố đầy người ”
Đây là thời kỳ mà người xưa vẫn còn nguồn an nhàn khi địa vị xã hội của Nho giáo không còn nữa. xuất hiện mỗi năm một lần vào dịp Tết.
lời bài hát thật buồn, nhưng vẫn phảng phất chút vui khi người ta vẫn như đôi câu đối đỏ treo quanh nhà. đó là những niềm vui nho nhỏ, những huy hoàng còn lại:
“có bao nhiêu người thuê viết thư
giống như một con phượng hoàng đang múa với một con rồng ”
giờ anh ấy trông giống như một nghệ sĩ thể hiện tài năng của mình trước sự ngưỡng mộ của mọi người. đó là những khoảnh khắc chập chờn của ngọn đèn sắp tắt, những gì còn lại của “tàn tích của một thời đã qua”.
c) ông nội vắng vẻ và vắng khách
Theo sự tiến bộ của xã hội, con người đã có những thay đổi mới, niềm vui còn lại của người xưa ngày càng vơi đi …
“nhưng năm nào anh ấy cũng vắng mặt
người thuê viết bây giờ ở đâu? ”
Cảnh mọi người tụ tập xung quanh anh ấy để thuê một nhà văn đã không còn nữa. cô ấy trông giống như một nghệ sĩ đại chúng, một cô gái hết thời.
tâm trạng cô đơn buồn bã thấm dần từ lòng người đến cảnh vật. không ai thuê người viết “trang giấy đỏ buồn vô định còn mực nghiên đau” để tăng thêm nỗi buồn cô đơn của ông lão và thể hiện sự thương cảm của tác giả.
ông già bây giờ “vẫn ngồi đây”, nhưng “không ai biết” một tai nạn nghiệt ngã!
Anh ấy ngồi đây để chờ đợi những hy vọng cuối cùng của mình, nhưng không ai trao chúng cho anh ấy. nhưng giữa dòng người qua lại, vẫn có một người đồng cảm với anh và viết hai câu đặc biệt: lá vàng rơi trên giấy ngoài trời mưa.
Chiếc lá vàng rơi ngừng sinh sôi. ông lão ngồi trầm ngâm không buồn thu mình lại, còn có “mưa bụi” từ đất trời, một hình ảnh tượng trưng chất chứa bao tâm trạng, mưa bay ngoài trời hay mưa trong lòng người ?, cảnh vật ám chỉ đến. gợi lên trong lòng người đọc một nỗi buồn khó tả.
d) ông nội không còn nữa
Mùa xuân đến, hoa đào lại nở. nhưng xuân năm nay không còn như xuân xưa nữa vì: năm nay hoa đào không thấy người xưa.
Mùa xuân đã đến, nhưng cố nhân đã ra đi, vĩnh viễn đi vào dĩ vãng. “một con én không thể tạo nên mùa xuân”, một “giáo chủ” không thể thay đổi thế giới. anh không còn đủ kiên nhẫn để níu kéo cuộc sống khắc nghiệt ấy nữa … anh ra đi, bỏ lại quá khứ oanh liệt của một thời huy hoàng.
Hai câu cuối là lời khuyên của nhà thơ, là lời than khóc đau thương: hồn xưa nay ở đâu? thơ như một nén hương tưởng nhớ người xưa
Con người ngày xưa đã tạo nên nền văn hóa dân tộc. đó là tinh hoa của dân tộc, là giá trị của đời sống tinh thần. bây giờ họ đang ở đâu?
Ông đồ là một hình ảnh, một di tích đáng thương của một thời suy vi. nó như ngọn đèn sáng làm nên sự sống rồi vụt tắt trước những đổi thay của cuộc đời. bài thơ với ngôn ngữ quen thuộc, ca từ nhẹ nhàng, nghiêm trang, chỉ vỏn vẹn 5 khổ nhưng đã gói gọn những số phận, một lớp người, một thế hệ đã qua.
iii. kết thúc
– bày tỏ ý kiến, đánh giá chung, mở rộng vấn đề
– Việt Nam có nhiều phong tục tập quán và văn hóa tốt đẹp. nhưng cùng với quá trình hội nhập, nhiều nét đẹp đã bị lãng quên. Bài thơ của Ông Đồ đã thể hiện thành công niềm tiếc nuối khi vẻ đẹp bị lãng quên. Đồng thời, đây là lời nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta hãy cố gắng giữ gìn những nét đẹp của dân tộc để Việt Nam trở thành một đất nước văn minh, hiện đại.
2. phân tích bài thơ mr. su
Vào những ngày tết đến xuân về, náo nức trên từng con phố, những người yêu thơ lại lặng lẽ lắng mình trong một nhịp sống giản dị và nhân văn của nhà thơ vu đình liên lục: bài thơ “Ông đồ”.
Xem Thêm : Mẫu giấy vay tiền mới nhất 2021
Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành di tích của một thời đã qua. Nho giáo đã không còn được ưa chuộng, mọi người đang gấp rút theo kịp thời đại với thư pháp phương Tây.
Trong hai đoạn đầu của bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày tháng oanh liệt của ông mình:
có bao nhiêu người thuê viết thư
khen ngợi vốn
bản phác thảo bằng tay
Giống như một con phượng hoàng đang múa với một con rồng.
Những lời khen ngợi là hào phóng, nhưng hãy nghĩ lại, đó chỉ là những lời khen ngợi từ những người bên ngoài học thuật. tự nó viết một câu ghép là một sai lầm, một bước bỏ lỡ của các học giả. nếu đỗ các thành nghè, thám, đỗ thấp cũng được chỉ định, nhưng chưa đạt được gì, công thành danh toại, danh tiếng không bằng lòng, phải về quê. để dạy học, bốc thuốc hay xem logic của những con số ở quê hương, nơi thành thị như nó đã từng làm rải rác. Ngày Tết, mài mực, bán chữ trên vỉa hè có lẽ là công việc bất đắc dĩ của nhà Nho. những lời được đưa ra, nhưng ai bán chúng. bán thẻ là cực của học giả trong mọi thời điểm. bà con mến mộ cái chữ thú mà không biết, hay chỉ biết võ nên hết lời khen ngợi cô. Lời khen này không làm vinh hiển cho ông cụ, có thể ông vẫn còn buồn, nhưng nó an ủi ông rất nhiều, ông là tình yêu của thế giới cuối đời. tác giả giới thiệu: cùng với hoa đào, mỗi năm chỉ có một lần nhưng không nhiều, giấy đỏ mực Tàu, chữ các bậc thánh hiền bày la liệt trên phố. đừng nghĩ hàn lâm, hãy nghĩ như một người bán hàng, đây là hai bài thơ hài hước vì nó nói rằng người bán hàng, ông già sống tiếp, có thể tồn tại trong xã hội đang thay đổi này. nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng như vậy, sở thích của con người cũng thay đổi theo thời đại. lớp người lớn không liên quan gì đến loại chữ tượng hình đó. Tài năng viết, vẽ, đóng dấu và nước mắt của người thợ sắp chữ giỏi đó, họ không cần biết:
nhưng năm nào anh ấy cũng vắng mặt
người thuê ở đâu?
tờ giấy đỏ thật buồn
Mực vẫn còn trong phòng thu …
ông già vẫn ngồi đó
Đi qua con đường không ai biết
lá vàng rơi trên giấy
trong mưa
anh rơi vào hoàn cảnh của một nghệ sĩ vì công, một cô gái vì sắc đẹp. duyên của người nhặt được của người, kết lại sớm trưa một mình. ông già vẫn ngồi đó và không ai biết điều đó. thực tế ngoài đời là thế và chỉ có thế, thiếu hàng. nhưng trong thơ, cùng với hiện thực ấy, còn có cả nỗi lòng của tác giả, nên trang giấy đỏ ấy dường như phai nhạt và biến thành nỗi buồn, điều tuyệt vời nhất cộng hưởng với nỗi buồn này chính là cảnh mưa phùn. hiện thực trong thơ là hiện thực của lòng người, lòng vui như những năm tháng “bình dân” xưa chưa từng thấy mưa gió. gió cuốn lá bay đi, những chiếc lá cuối mùa vàng rơi trên giấy, nó rơi rồi nằm đó vì giấy chưa dùng, không phải nhặt. lưỡi dao bất động ở nơi không thấy bóng dáng người xưa, bất động nhìn mưa bụi bay. Đoạn văn miêu tả rất ít từ ngữ nhưng cảnh vật hiện lên như một bức tranh vẽ, không chỉ có bóng dáng của ông lão mà còn thể hiện được sự hoang vu của xã hội qua đôi mắt của ông. tác giả đã có những chi tiết rất đắt: tiền đồ là bút mực, đất trời gió mưa, xã hội thờ ơ ở đâu. thể thơ năm chữ có sức diễn tả những câu chuyện vụn vỡ, hoài niệm đã rất thuận, nhịp điệu gợi một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía. bức màn mưa bụi khép lại bài thơ thật u tối, lạnh lẽo, buồn bã, trống vắng. nên chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, cũng đủ nói lên tất cả những cung bậc cuối cùng của một thời chết chóc. sự so sánh chi tiết trong đoạn này với đoạn trước: mực và mực, giấy và giấy, người và người, cho chúng ta ấn tượng về sự thay đổi gây sốc và đau đớn nhất.
có một khoảng thời gian, khoảng thời gian của câu thơ trước khi nhập bốn dòng cuối cùng:
năm nay đào lại nở rộ
Tôi không gặp ông già
sống lâu như cũ
linh hồn bây giờ ở đâu?
Hãy quay lại câu thơ đầu tiên mỗi năm hoa đào nở để thấy rằng quy luật trên không còn giữ được nữa. ông già là bệnh nhân vẫn ngồi đó, nhưng năm nay ông không còn là bệnh nhân nữa: không thấy ông già đâu. hắn cố gắng níu kéo xã hội hiện đại, chúng ta người hiện đại đã nhìn ra nỗ lực của hắn, chúng ta thấy hắn chật vật, nhưng chúng ta không làm gì được, cho tới bây giờ nhìn lại, ta biết hắn đã bị bỏ rơi từ bao giờ. bóng của nó không phải là bóng của một người, của một nghề nghiệp, mà là hình bóng của cả một thời đại, bóng của ký ức của chính tâm hồn chúng ta. chỉ bây giờ chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc, nhưng đã quá muộn. Chúng ta hỏi nhau hay chúng ta tự hỏi chính mình? yêu cầu hoặc cầu nguyện để tưởng nhớ, hoặc ăn năn. trong hai dòng ngắn gọn nhất của bài thơ, ta đọc thấy ở đó số phận của ông đồ và nhất là thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với dân tộc, ngữ pháp của đoạn thơ này rất quan trọng. Thật kỳ lạ, nhưng không ai để ý. : người già. sống lâu, thật ra cũng chỉ có mấy năm, nhưng đúng là thời cổ quái đã xa, lông bông, học xa trong lịch sử. lời xưa của câu xưa ở trên vang lên lời xưa của câu dưới lại càng thấm thía nỗi nhớ nhung. câu thơ không phải là một nỗi đau thổn thức, nó như một tiếng thở dài thê lương, một niềm tiếc nuối khôn nguôi.
3. phân tích nhân vật của mr. bản đồ
Nếu sức mạnh của thơ nằm ở khả năng khơi gợi và truyền cảm thì “ông đồ” của vu dinh lục có thể coi là một bài thơ đầy chất thơ. ít có bài thơ ngắn chỉ năm khổ thơ như thế mà để lại ấn tượng xúc động, khơi gợi nỗi nhớ da diết đến thế. ngậm ngùi trước một nét đẹp truyền thống đã mất. cảm thông cho một lớp người dù đã lạc hậu dù đã dần đi vào dĩ vãng. đó là nội dung chính của tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Ông đồ. đó cũng chính là nét khiến cho cảm hứng nhân văn này bền lâu, in sâu vào tâm trí người đọc và điều đó dường như càng phong phú hơn ở những tác phẩm sau này. nhân vật trưởng lão ở đây tương tự như cổ vật, nhưng thời gian càng trôi qua thì giá trị càng cao?
chúng ta thấy rằng trong cảm hứng của vu dinh liên có hai điều đáng chú ý: sự ngưỡng mộ và thích thú trước vẻ đẹp của ngôn từ, và sự cảm thông sâu sắc đối với “di tích đáng thương của một thời đại đã qua”, như chính tác giả đã tiết lộ.
p>
lòng ngưỡng mộ của nhà thơ đi vào lời bài hát “như rồng bay phượng múa” từ một tùy bút có “hoa lay ơn”. những nét đặc sắc ấy của thế “rồng bay múa” đủ để người đời “ngợi ca tài hoa”, chinh phục được cả thi nhân. vẻ đẹp ấy trong khung cảnh “đào hoa” tương ứng với tiết trời se se lạnh đầu năm và không khí xuân năm mới sắp đến, dường như đang hòa vào một men say hấp dẫn.
nhưng sự ngưỡng mộ ấy ở đây chỉ là tiền đề, là nguyên nhân dẫn đến nỗi buồn nhớ nhung đã ăn sâu vào bài viết. càng ngợi ca, ngưỡng mộ vẻ đẹp “rồng bay phượng múa giỏi” ấy, nhà thơ càng bùi ngùi nhớ nhung trước cảnh vắng vẻ chợ vắng năm nào: kẻ tá điền nay viết ở đâu? đặc biệt hai dòng thơ sau có sức truyền cảm mạnh mẽ, phảng phất hơi hướng “thi ngoại ngữ” đầy dư vị trải dài ba nhịp:
tờ giấy đỏ thật buồn,
Mực vẫn còn trong phòng thu …
Đây là những hình ảnh xúc động, những dòng thơ chất chứa nội dung xúc động. người ta nói rằng nỗi buồn của tờ giấy thực ra là nỗi buồn của con người trước sự tàn lụi của cái đẹp. Nó được cho là mực trong phòng thu, chỉ là một cách bày tỏ nỗi buồn cho một hiện tượng đáng kính sắp mất.
Cho đến hai khổ cuối của bài thơ, tình cảm của tác giả đều hướng về con người đã tạo nên vẻ đẹp trên. hình ảnh ông cụ vẫn ngồi đó, nhưng gần như đã bị lãng quên, buồn đến nỗi “qua đường” chẳng ai biết “buồn làm sao, tội nghiệp làm sao! Chỉ có” lá vàng rơi trên trang giấy “trong khi” ngoài kia mưa và bụi bay “như muốn vùi dập và xóa nhòa đi mọi vẻ đẹp quý giá của một thời đại. cả một lớp người quá” xấu “! một nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc nay không còn nữa.
Cuối cùng, bóng dáng của các trưởng lão đã biến mất. họ đã mất một mô hình “cũ”. lời kêu gọi tâm hồn “muôn năm cũ” ấy, có lẽ tác giả chỉ hướng đến một thế hệ lạc hậu, nhưng chúng ta vẫn cho rằng sự cảm thông, ăn năn và khao khát không chỉ dành cho người xưa, người cũ. văn hóa truyền thống đang dần bị mai một. niềm khao khát, hoài niệm ấy trong những năm gần đây ngày càng đáp ứng được sự đồng cảm của thế hệ hôm nay, vốn biết hướng về cội nguồn. rồi cùng với việc khôi phục các lễ hội dân gian, một số nơi như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh còn tổ chức triển lãm thư pháp, “cho chữ” ở văn miếu… xưa, nay cũng đã thành “muôn năm”. người đàn ông “ở thế giới bên kia! giấy đỏ đã đỏ từ bao năm; mực lại phát sáng trong phòng thu nên bạn có thể khóa bút mừng xuân khi cây đào nở hoa, bạn có vui không?
4. phân tích bài thơ mr. do de vu dinh lien
vu dinh lien là một trong những nhà thơ mở đầu cho phong trào thơ mới. những tác phẩm về vu dinh không nhiều nhưng đều là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật và nhân văn sâu sắc. Trong số những tác phẩm của ông còn lại cho đến ngày nay, thì Ông đồ là tác phẩm nổi bật nhất. bài thơ của mr. làm là hoài niệm của tác giả với một nét đẹp truyền thống xưa đang từng chút một bị mai một.
những bài thơ ra đời khi Nho giáo suy vi, những tinh hoa của Nho giáo năm xưa chỉ là phế tích, cổ nhân và chữ Nho cũng trở thành phế tích khi người ta ném bút lông, bút chì
p>
hai khổ thơ đầu, vu đình liên tưởng nhớ lại những ngày tháng vinh quang của ông. c:
hàng năm hoa đào nở
gặp lại cố nhân
hiển thị giấy và mực đỏ
trên đường phố đông đúc
có bao nhiêu người thuê viết thư
khen ngợi vốn
bản phác thảo bằng tay
Xem Thêm : Cách Mua Bitcoin tại Việt Nam – Hướng dẫn cho Người mới bắt đầu
như phượng hoàng múa rồng
Khổ thơ đầu tiên gợi ý về thời gian và địa điểm nơi ông làm việc. thời điểm đang vào xuân, mùa đẹp nhất trong năm với hình ảnh hoa đào nở rộ ẩn dụ đã cho chúng ta thấy được công lao của con người khi đất trời bắt đầu vào cái đẹp nhất của không khí mùa xuân trong năm, hình ảnh của những bông hoa đào vốn đã rực rỡ nay lại thêm “giấy đỏ mực” làm cho từng đường nét trong bức tranh miêu tả khung cảnh của thời kỳ huy hoàng này đậm hơn, nhạt hơn, hạnh phúc hơn, tràn đầy sức sống hơn. đặc biệt là sự lặp lại thời gian “lại” đã thể hiện sự gắn bó lâu dài giữa ông đồ với mùa xuân, công việc sáng tác của ông không chỉ thực hiện trong một năm mà từ mùa xuân năm này qua mùa xuân năm khác. năm. nơi ông già viết chữ là “cạnh phố đông”, phố đông người vào mỗi độ xuân về và quan trọng nhất là đám đông quan tâm đến ông cụ “viết thuê bao người”. .và biết cách đánh giá cao tài năng của họ “ca ngợi tài năng”. tác giả miêu tả lời bài hát của mình là “những bông hoa vẽ tay / những nét vẽ như rồng bay phượng múa”. nghệ thuật so sánh của hai câu thơ này toát lên khí chất trong từng nét chữ của ông đồ. làm, tức là nét chữ đẹp đẽ, phóng khoáng và cao quý. bằng ca từ ca ngợi, tác giả gửi gắm sự trân trọng và ngưỡng mộ. nghiêm túc, trân trọng nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc. ở hai khổ thơ đầu hình ảnh ông đồ trong thời đại oanh liệt được tác giả trân trọng, ngưỡng mộ, qua hình ảnh ông đồ, cụ vu đình còn thể hiện tình cảm chân thành đối với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. / p>
hai khổ thơ tiếp theo, tác giả vẽ nên bức tranh một sĩ phu thời hiện đại, một nho sĩ lạc vào một huyết mạch không còn phù hợp, một huyết mạch mà chữ nho đã trở thành phế tích
nhưng năm nào anh ấy cũng vắng mặt
người thuê viết ở đâu bây giờ?
tờ giấy đỏ thật buồn
Mực vẫn còn trong phòng thu
ông già vẫn ngồi đó
Đi qua con đường không ai biết
lá vàng rơi trên giấy
ngoài trời đang mưa
“Năm nay đào lại nở” cảnh xuân vẫn diễn ra nhưng lòng người đã thay đổi, “người viết thuê bây giờ ở đâu?”. đây là một câu hỏi tu từ chứa đựng nỗi băn khoăn, xót xa của tác giả trước sự đổi thay của con người, mùa xuân vẫn đẹp như thế này nhưng người ta không còn mặn mà với những nét đẹp của văn hóa xưa nữa. đây là bài thơ miêu tả sự suy tàn của văn hóa nho cổ. “Giấy đỏ buồn chẳng soi / Mực bút nghiên” trước sự thờ ơ của con người, vật cũng tối buồn, những hình ảnh nhân hóa làm cho giấy đỏ, mực chữ thảo cũng mang nỗi niềm. rằng con người ta, bị quên thì quên, giấy đỏ cũng phai, mực còn trong nghiên cứu hay trong nỗi buồn “sầu” nghe thật buồn.
hình ảnh ông đồ ngày nay cũng đã thay đổi, “ông đồ ngồi đó / không ai biết” nếu trước là “bao kẻ thuê viết / khen tài” thì nay hình ảnh ông. trong im lặng, tan dần vào quên lãng của mọi người. Vốn dĩ nghề Nho là nghề của những nhà Nho thời xưa không đạt được ước mơ học hành là bốc thuốc, dạy học, trải chiếu để bán chữ, vốn là một nghề nghiệt ngã của một nhà Nho, cái chữ chỉ của riêng ai. lại bán tín bán nghi như lời một người đàn ông bị kết án chung thân chỉ cho chữ 3 lần, nhưng ở đây phải bán chữ kiếm sống, đủ thấy nỗi bất hạnh của một đời Nho. ngày xưa được mọi người chấp nhận, ít nhất cũng kiếm sống được bằng nghề này, đến nay, Nho học sa sút, người ta không còn quan tâm đến ông đồ, chữ ông viết, tức là không kiếm sống được. bản thân khả năng của mình cũng vậy, ở đây không chỉ là nỗi ô nhục về tài năng mà còn là nỗi ô nhục về cơm áo gạo tiền. phong cảnh xung quanh mr. của bạn còn chứa đựng nỗi buồn “lá vàng rơi trên giấy / Ngoài trời mưa bụi”, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, cảnh xuân cũng đã tàn, buồn theo nỗi buồn của con người, thực ra “người vui không bao giờ vui”. (nguyen du)
khổ cuối của khổ thơ tác giả dùng để bày tỏ lòng tiếc thương ông đồ cũng như những nét đẹp văn hóa mất đi của dân tộc
năm nay hoa đào nở
Tôi không gặp ông già
sống lâu như cũ
linh hồn bây giờ ở đâu
ở đầu bài thơ tác giả viết “năm nào hoa đào nở / gặp lại cố nhân” cuối bài thơ tác giả viết “năm nay hoa đào nở / không thấy cố nhân”. kết cấu đầu cuối đoạn tương ứng giúp bài thơ gần gũi, gắn kết thành một thể thống nhất, nhưng cũng khắc sâu nỗi buồn của tác giả trước sự mai một ngày càng nhiều nét đẹp truyền thống của dân tộc. cảnh sắc thiên nhiên vẫn đẹp, hoa đào vẫn nở, nhưng ông đồ không còn “bày giấy mực đỏ nữa”. ông đồ đã khuất hẳn trong hình ảnh mùa xuân không thay đổi ấy, cảnh vật đã quên người xưa theo thời gian. , hay là nét đẹp truyền thống đã mai một? câu hỏi tu từ “người xưa / hồn nay ở đâu?” là cuộc đấu của tác giả với mr. làm với những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc
Với thể điệu hình ngôi sao năm cánh, ca từ giản dị nhưng sâu lắng, cô đọng, lời ca như một lời tự sự kể về nét đẹp truyền thống cổ xưa của dân tộc, kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ. bài thơ chứa đựng tất cả những yếu tố nghệ thuật đặc sắc nhất. Qua những nét nghệ thuật tiêu biểu đó, tác giả thể hiện niềm tiếc thương ông đồ và xót xa cho sự mất mát của một nền văn hoá dân tộc.
5. cảm nghĩ về bài thơ mr. su
vu dinh lien (1913-1996) la mot dien vien, nguoi mau. nổi tiếng trong phong trào thơ mới với bài thơ “ông đồ” viết theo thể trượng, gồm 20 dòng. thuộc thể loại thơ “từ dưới xuôi lên”, nhưng “bốn bề thăm thẳm” thể hiện một hồn thơ nhân hậu, giàu tình người và mang một nỗi nhớ da diết.
Ông nội là nhà Nho, không đỗ đạt cao để làm quan mà chỉ ngồi dạy “lời nói khôn”. người ông mà nhà thơ nhắc đến là một nhà Nho tài năng. xuất hiện vào độ “hoa đào nở”… “bên phố người đông”. Tôi đã có những ngày vui vẻ, những kỷ niệm đẹp:
“hoa vẽ tay
như phượng hoàng đang múa rồng “
Hoa đào nở rất đẹp. giấy đỏ đẹp, mực đen tuyền. thư bay tài năng còn gì vui hơn:
“trên đường phố đông đúc
có bao nhiêu người thuê viết thư
thẻ khen ngợi tài năng. “
Thời gian đã thay đổi. Hán học đã mai một trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến: “dù chữ uva – ông nghệ, ông công cũng nằm…” (tu xương). ông già là một khách nghiệp dư sinh ra vào một thời điểm không thích hợp. trước “phố đông người qua”, bây giờ “năm nào cũng vắng”, trước “người thuê viết bao nhiêu”, giờ “người thuê viết ở đâu bây giờ?”. một câu hỏi làm dấy lên nhiều hoang mang, đồng cảm. nỗi buồn, nỗi xót xa của lòng anh như làm cho mực khô mất nhiều thời gian “tìm kiếm”, như làm cho trang giấy đỏ phai “buồn không đỏ”. của tình huống:
“tờ giấy đỏ thật buồn
Mực còn lại trong phòng thu … “
cảnh buồn. trái tim buồn. vu dinh lien đã xuất thần viết nên hai bài thơ tuyệt vời làm xúc động lòng người.
nỗi buồn của lòng người thấm đẫm và lan tỏa trong không gian của cảnh vật. trong cơn mưa bụi, “ngồi đó vần” như bất động. lẻ loi và cô đơn: “qua đường chẳng ai biết”. cái úa vàng của lá, tàn phai của giấy, của mưa bụi bay đầy trời và mưa trong lòng người. một nỗi buồn dai dẳng:
“lá vàng rơi trên giấy
Trời mưa và bên ngoài đầy bụi. “
bài thơ tả ít nhưng gợi nhiều. khung cảnh u ám khổng lồ. lòng người vô cùng đau buồn.
đoạn cuối bài thơ là một câu hỏi thể hiện một nỗi buồn trống trải, một nỗi thương tiếc, một nỗi niềm. hoa đào lại nở. ông già đã đi đâu …
“năm nay đào lại nở hoa
Tôi không gặp ông già
sống lâu như cũ
linh hồn bây giờ ở đâu?
Yêu cố nhân cũng là yêu một lớp người đã vĩnh viễn lùi vào dĩ vãng. yêu anh cũng là đồng cảm với một nền văn hóa đã bị diệt vong dưới ách thống trị của ngoại bang. vu dinh lien’s thương cảm cho mr. làm bao trùm và thấm sâu vào từng câu thơ, đoạn thơ. kỹ thuật tương phản, kết hợp với nhân cách hóa và ẩn dụ, đã tạo ra nhiều hình ảnh giàu sức gợi, thể hiện một phong cách nghệ thuật điêu luyện và táo bạo.
bài thơ “xưa” chứa chan tinh thần nhân văn. “Theo đuổi nghiệp văn chương chỉ cần làm được một bài thơ như thế là đủ, tức là đã đủ làm rạng danh thiên hạ” (hoai thanh). đó là những lời tốt đẹp nhất, trân trọng nhất mà tác giả bài thơ “Thi nhân Việt Nam” đã dành tặng cho bài vu đình và bài thơ “ông đồ”.
Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp
Lời kết: Trên đây là bài viết Top 5 mẫu phân tích bài thơ Ông đồ hay chọn lọc – Cảm nhận về bài thơ Ông đồ. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn