Cùng xem Các nguồn luật cơ bản ở Việt Nam trên youtube.
Tóm tắt:
Bài viết tập trung làm rõ một số khái niệm về nguồn luật, đồng thời phân tích một số nguồn luật cơ bản ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, bài viết cũng phân tích mối quan hệ, áp dụng và hỗ trợ của các nguồn luật này.
Từ khóa: Nguồn pháp luật, văn bản pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp (luật học).
1. Khái niệm nguồn của pháp luật
Hiện nay, khái niệm nguồn luật chưa được thống nhất đầy đủ. Các học giả pháp lý cho rằng nguồn của pháp luật là câu hỏi “đâu là giải pháp cho các vấn đề pháp lý” [1] . Khi nói về nguồn của pháp luật, chúng ta phải xem xét quy định của pháp luật tồn tại ở đâu, tức là cơ sở để điều chỉnh những vấn đề cụ thể của đời sống.
Ở Việt Nam, khái niệm nguồn gốc pháp luật được đề cập dưới nhiều góc độ và mức độ khác nhau trong các sách chuyên khảo, giáo trình, tạp chí định kỳ… , ban hành, giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tiễn. [2] Theo nghĩa chung nhất, nguồn của pháp luật là toàn bộ những căn cứ làm cơ sở cho việc xây dựng, giải thích, thực hiện và áp dụng pháp luật. [3]
Nhiều nhà nghiên cứu thường sử dụng 2 thuật ngữ “nguồn pháp luật” và “hình thức pháp luật” khi đề cập đến nguồn pháp luật. gs.tskh. Giới trí thức Australia cho rằng hình thức pháp luật bao gồm hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong của pháp luật là sự kết tinh của các yếu tố cấu thành nội dung của pháp luật. Hình thức bên ngoài của luật là sự thể hiện và cấu trúc bên ngoài của nguồn luật, chứa đựng nội dung của luật và gửi nó đến địa chỉ mà nó được áp dụng. Hình thức bên trong của pháp luật bao gồm các nguyên tắc chung của pháp luật, hệ thống pháp luật, các ngành pháp luật, hệ thống pháp luật và quy phạm pháp luật. Hình thức bên ngoài của pháp luật là biểu hiện bên ngoài của nó, bao gồm luật tục, án lệ, văn bản quy phạm pháp luật, luật tôn giáo, v.v. Một tác giả khác chia nguồn hợp pháp thành nguồn nội dung và nguồn chính thức, trong đó, “nguồn nội dung là nguồn hợp pháp và nguồn hợp pháp vì nó dựa trên chủ thể có thẩm quyền”. nguồn quy phạm pháp luật được hiểu là cách thức tồn tại của quy phạm pháp luật trên thực tế hoặc địa điểm mà quy phạm pháp luật có thể cung cấp, tức là căn cứ mà các chủ thể có quyền dựa vào để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trên thực tế. “.[4]
Vì vậy, hiểu đơn giản nhất về nguồn pháp luật là nơi quy phạm pháp luật nằm ở đó. Ở Việt Nam hiện nay tồn tại ba loại nguồn pháp luật cơ bản, đó là: văn bản quy phạm pháp luật (vbqppl), tập quán pháp và tiền lệ pháp.
2. Nguồn gốc Luật cơ bản của Việt Nam
2.1. Văn bản pháp luật
Chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp luật châu Âu lục địa, Việt Nam rất coi trọng hình thức vbqppl. Có thể khẳng định rằng “văn bản quy phạm pháp luật là nguồn phổ biến nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội”. [5]
Mục 2 Luật ban hành VBQPPL năm 2015 định nghĩa: VBQPPL là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định tại Luật này.
Đó là một hệ quy phạm pháp luật được thiết lập một cách khái quát trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quan sát nhu cầu thực tiễn, kinh nghiệm lập pháp và dự đoán các quan hệ xã hội diễn ra trong đời sống, nhằm điều chỉnh chúng một cách rộng rãi nhất. Ưu điểm của hình thức pháp luật này là rõ ràng, dân chủ, có thể điều chỉnh từ xa các quan hệ xã hội. Nhưng vbqppl có khuyết điểm là chưa sát thực tế, cộng với những khó khăn do việc sử dụng ngôn ngữ mang lại nên việc áp dụng vbqppl gặp phải những hạn chế nhất định. Hơn nữa, dân chủ của cơ quan lập pháp là dân chủ của đa số, không thể bỏ qua lợi ích của thiểu số. Vì vậy, trên thực tế, bên cạnh loại nguồn phổ biến là vbqppl, luật tục cũng được thừa nhận là một trong những nguồn cơ bản của pháp luật Việt Nam ở Việt Nam. Đồng thời, trong xu thế chung của pháp luật các nước trên thế giới, Việt Nam bắt đầu sử dụng án lệ để khắc phục nhược điểm của hình thức vbqppl.
2.2. Hải quan Pháp
Luật hải quan là một trong những hình thức luật cổ điển nhất[6], từ trước đến nay được coi là nguồn gốc quan trọng của các vấn đề điều chỉnh đời sống xã hội, nhưng trước khi các văn bản quy phạm pháp luật ra đời, các vi phạm, tập quán pháp hiện nay chỉ được coi là một Nguồn bổ sung mà pháp luật không quy định.
Theo Từ điển Oxford, phong tục được hiểu là “một truyền thống và khuôn mẫu hành vi được chấp nhận rộng rãi, đặc biệt áp dụng cho một xã hội, địa điểm hoặc khoảng thời gian cụ thể. Nhất định. Chắc chắn. Từ điển Cambridge Định nghĩa: Phong tục là một khuôn mẫu ứng xử hoặc một phong tục đã được hình thành từ lâu.[7] Từ điển Black’s Law cho rằng phong tục là “một thực tế mà, thông qua sự thừa nhận chung và lâu dài, một phong tục không thay đổi đã trở thành luật có hiệu lực.”[8]
Ở Việt Nam, dưới góc độ nghiên cứu khoa học và pháp lý, phong tục được hiểu là những phong cách, thói quen ứng xử hay những quy tắc xử sự chung hình thành một cách tự phát trong cộng đồng dân cư. Việc thực hiện nhất định được bảo đảm bằng tập quán, tính thuyết phục, dư luận và một số biện pháp cưỡng chế phi nhà nước. [9]
Dưới góc độ pháp lý, “tập quán là những quy tắc xử sự xác định nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ dân sự cụ thể, được xác lập và lặp đi lặp lại. Chúng xuất hiện nhiều lần trong một thời gian dài và thu được trong một khu vực. Được công nhận và áp dụng rộng rãi, các vùng, các dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc lĩnh vực dân sự”. [10] Với định nghĩa này, nhà lập pháp đưa vào tiêu chuẩn và điều kiện để tập quán được công nhận và áp dụng, đó là quy tắc xử sự để được coi là tập quán phải có nội dung rõ ràng, tức là xác định quyền và nghĩa vụ của tập quán. các bên, và phải ở trong một vùng, miền Lâu bền, được công nhận và sử dụng rộng rãi trong cộng đồng dân cư, lĩnh vực. Do đó, định nghĩa này chỉ liên quan đến khái niệm tập quán chứ không chỉ rõ tập quán pháp lý là gì, tức là tập quán sẽ không tự động trở thành tập quán pháp lý.
Trên sách, báo, giáo trình, tập quán pháp được hiểu khá thống nhất là “những hình thức pháp luật được lưu truyền trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận và tồn tại dưới hình thức phong tục, tập quán, được nhà nước thừa nhận[11] Với định nghĩa này, câu hỏi chưa được làm rõ là: Chủ thể danh nghĩa của pháp luật để có được hình thức của tập quán là ai, Nhà nước thừa nhận tập quán hiện có và cách thức ghi nhận nên không có sự xác lập rõ ràng giữa tập quán pháp và tiền lệ pháp và vbqppl Ranh giới của một tập quán cụ thể, như tục lệ vua nam qua đời, tục lệ truyền bất động sản liền kề, được ghi nhận trong các điều khoản cụ thể của BLDS và trở thành một dạng của vbqppl. Mặt khác, khi Quốc hội thông qua Bộ luật dân sự, không cho phép áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự mà pháp luật không quy định hoặc cho phép áp dụng tập quán để giải quyết những vấn đề cụ thể như xác định tập quán. dân tộc, chi phí tang lễ hợp lý.. Lý do là chỉ có tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền mới áp dụng tập quán cụ thể của địa phương để giải quyết Dựa trên cơ sở đó, chúng ta có thể xác định tập quán nào là nội dung của pháp luật. Hơn nữa, nếu bản án áp dụng tập quán cụ thể tập quán để giải quyết một vụ án, và bản án sau đó được công nhận để giải quyết những vụ án tương tự, đây là hiện thân của tiền lệ.
Tóm lại, theo pháp luật hiện hành của nước ta, luật tục có thể được hiểu là “hình thức pháp lý xuất phát từ tập quán trên cơ sở cho phép các cơ quan nhà nước áp dụng tập quán”. Quốc gia có thẩm quyền, chủ thể áp dụng pháp luật, áp dụng tập quán cụ thể làm cơ sở để giải quyết vụ án.
Phong tục Pháp có ưu điểm là thân thiện với người dân. Luật tục thể hiện tính dân chủ cao khi nhà nước thừa nhận ý chí của người dân là pháp luật. [12] Mặt khác, vì tập quán là tập quán của cùng một nhóm người nên việc áp dụng tập quán sẽ ảnh hưởng đến tính thống nhất của pháp luật, điều này trái với nguyên tắc của án lệ là “vụ án tương tự phải giải quyết cùng một quyết định”. Sự chênh lệch này được cho là cần thiết do sự khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các cộng đồng, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số. Về vấn đề này, việc sử dụng hợp lý luật tục của các dân tộc thiểu số như một nguồn luật cũng có lợi cho việc bảo vệ quyền con người. [13]
2.3. tiền lệ (trường hợp tiền lệ)
Xem Thêm : Giáo trình quản trị học PDF
Tiền lệ pháp và án lệ là hai khái niệm giống nhau nhưng không đồng nhất. Trong tài liệu giảng dạy của các cơ sở đào tạo trong nước, “án lệ là hình thức ghi nhận của nhà nước đối với các quyết định của cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp cấp trên trong việc giải quyết các vụ việc cụ thể, làm cơ sở để áp dụng cho các vụ án tương tự”. [14] Theo cách giải thích trên, tiền lệ là một loại tiền lệ. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng án lệ chỉ là án lệ của cơ quan tư pháp, không phải là án lệ của cơ quan lập pháp và hành chính. Có hai nguyên nhân chính: thứ nhất, xuất phát điểm của án lệ là trong quá trình xét xử, phù hợp với chức năng của cơ quan xét xử; thứ hai, nếu cơ quan hành chính cũng ban hành án lệ thì sẽ xảy ra mâu thuẫn, chồng chéo về chức năng, dẫn đến hậu quả là trong việc áp dụng chồng chéo các tiền lệ. [15]
Quyết định số 74/qd-tandtc làm rõ khái niệm tiền lệ: “tiền lệ là bản án, quyết định của tòa án về việc giải thích và áp dụng pháp luật áp dụng đối với vụ án có nội dung tương tự”. Khái niệm này khẳng định sự phát triển của án lệ ở nước ta Nguồn trong chiến lược là việc giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật trong các quyết định, bản án của tòa án. Nghị quyết 03/2015/nq-hĐtp của Hội đồng thẩm phán tandtc ban hành quy định về thủ tục xét chọn, công bố và áp dụng án lệ, định nghĩa: Án lệ do Hội đồng xét xử Toà án nhân dân tối cao xét chọn và Chủ tịch nước công bố án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, với tư cách là tòa án nghiên cứu, nghiên cứu và xét xử áp dụng. Vì vậy, theo định nghĩa này, án lệ chỉ là phần “luận cứ và nhận định” trong bản án chứ không phải là bản thân phán quyết trong Bản án gốc số 74.
Tiền lệ pháp và tiền lệ vụ việc là hai thuật ngữ có liên quan chặt chẽ với nhau, mặc dù không giống nhau nhưng được sử dụng thay thế cho nhau. Tiền lệ pháp được ưu tiên khi đề cập đến hình thức pháp lý, trong khi tiền lệ vụ án được hiểu là ủng hộ một phán quyết cụ thể như một mô hình cho cách xử lý các phán quyết tương tự xảy ra sau này. [116] Án lệ là một dạng luật do cơ quan tư pháp xây dựng. Ưu điểm của hình thức pháp lý này là sát thực tế, cô đọng, dễ hiểu, thống nhất và minh bạch. Do khoảng cách dai dẳng giữa luật theo luật định và thực tiễn, kết hợp với những khó khăn về ngôn ngữ, án lệ được coi là một thành tựu đáng chú ý của việc giải thích pháp luật đặc vụ. 17] giúp khắc phục những khuyết điểm của vbqppl. Tuy nhiên, việc sử dụng tiền lệ không đúng sẽ ảnh hưởng đến tính dân chủ, công bằng và làm tăng tính phức tạp của hệ thống pháp luật.
Như vậy ở nước ta hiện nay, các quy phạm pháp luật được thể hiện ra bên ngoài thông qua vbqppl, tiền lệ pháp và hương ước pháp luật. Trong đó, vbqppl là nguồn luật cơ bản nhất, tiếp theo là luật tục, được ghi nhận và áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự khi chưa quy định vbqppl. Án lệ là một hình thức pháp lý mới được thừa nhận, đã có 43 án lệ được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố [18] . Mức độ phổ biến và tác động tích cực của nó vẫn chưa được thử nghiệm và đánh giá.
3. Mối quan hệ và hỗ trợ lẫn nhau giữa các nguồn pháp luật
3.1. Mối quan hệ giữa các nguồn luật
Một vấn đề cần được làm rõ khi phân tích nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện nay là mối quan hệ giữa các nguồn pháp luật. Cụ thể, có sự khác biệt nhất định giữa pháp luật theo nghĩa là nhà nước ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật và luật tục. Nếu pháp luật do nhà nước ban hành thì cách làm thông thường là dự liệu và điều chỉnh, tức là nhà lập pháp dự kiến các quan hệ xã hội có thể xảy ra và mong rằng quy tắc ứng xử sẽ được áp dụng khi có vấn đề phát sinh. Pháp tục là những quy tắc ứng xử vốn có trong đời sống của một cộng đồng vùng, miền, khu vực cụ thể mà ta gọi là tập quán. Khi có vấn đề phát sinh, cơ quan có thẩm quyền sẽ viện dẫn tập quán để giải quyết từng trường hợp cụ thể và khi đó chúng ta có luật tục.
Ở đây, luật tập quán ít nhiều giống án lệ ở chỗ nó mới được tòa án áp dụng. Tuy nhiên, giữa luật tập quán và án lệ cũng có điểm khác nhau cơ bản, đó là trước đây với án lệ, các thẩm phán – nhà lập pháp, những người sẽ là người đặt ra các quy tắc xử sự chung – không có ở đó. Đúng vậy, đồng thời, tập quán nói trên chỉ là sự ghi nhận các quy tắc xử sự (không phải pháp luật) đã tồn tại của tòa án, đưa vào giải quyết các vụ việc cụ thể. Có lẽ chính vì vậy mà bộ luật dân sự, hôn nhân và gia đình hiện hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác về mặt khái niệm chỉ đưa ra khái niệm tập quán chứ chưa đưa ra khái niệm tập quán pháp.
3.2. Khả năng hỗ trợ lẫn nhau giữa các nguồn hợp pháp
Thực tiễn cho thấy, quy phạm pháp luật phải chứa đựng những quy tắc xử sự chung, nhưng việc áp dụng những quy tắc xử sự chung này cho mọi tình huống, kể cả những trường hợp ngoại lệ là không thể chấp nhận được. Văn bản quy phạm pháp luật phải có tính khái quát cao. Tuy nhiên, chính tính khái quát cao này khiến văn bản pháp luật dễ bộc lộ những thiếu sót. Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật thường dễ lạc hậu so với cuộc sống. [19] Đứng trước thực trạng đó, tập quán pháp và luật học đóng vai trò là hình thức pháp lý bổ sung để khắc phục những nhược điểm của hệ thống vbqppl.
Theo quy định tại Điều 5 Khoản 2 BLDS 2015 thì “Trường hợp các bên không thương lượng và pháp luật không có quy định thì có thể áp dụng tập quán, nhưng việc áp dụng tập quán không được vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Luật này.” Khoản 2 Điều 14 của Luật này quy định “Tòa án không được từ chối xét xử vụ, việc dân sự với lý do chưa có điều luật áp dụng; trong trường hợp đó thì áp dụng quy định quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Luật này thì áp dụng.” Trong Bộ luật Dân sự, trong quy định của Bộ luật, trong một số trường hợp cụ thể như xác định họ, quốc tịch của con khi cha mẹ không thỏa thuận, xác định mai táng phí hợp lý, v.v.[ 20], phong tục cũng được sử dụng để xác định. Vì vậy, các nhà lập pháp cũng nhận thấy, văn bản quy phạm pháp luật thành văn không thể điều chỉnh đầy đủ mọi quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc sống, trong trường hợp này, điều luật đề xuất không thể điều chỉnh toàn diện, có tập quán áp dụng hay không? Điều này chứng tỏ sự hỗ trợ của luật tục đối với nguồn cơ bản của các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là tập quán áp dụng và làm thế nào để chứng minh sự tồn tại của tập quán đang dần mai một dưới dạng bất thành văn là khó khăn hiện nay và là một trong những bất cập cần được xem xét. Để có thể tạo điều kiện phát huy vai trò của các nguồn đó, rất cần các cơ quan có thẩm quyền có những thỏa thuận, quy định rõ ràng, bắt đầu từ việc công khai bản án, vận dụng tập quán để kinh doanh. Thẩm phán đã áp dụng để xác định cách thức thiết lập các căn cứ để chứng minh sự tồn tại của một tập quán.
Bên cạnh sự phát triển của án lệ, một thực tế trong quá trình áp dụng pháp luật là nhiều khi tài liệu không được hiểu rõ hoặc không thấy trước hết những vấn đề có thể phát sinh, đòi hỏi tòa án phải sử dụng vai trò giải thích của cơ quan tố tụng. tòa án và áp dụng cùng một pháp luật và cơ quan tư pháp giải quyết các vụ việc, từ đó tạo nên sự thống nhất và đảm bảo tính toàn diện, hữu ích của hệ thống. 10 án lệ đã được Ủy ban Thẩm phán TAND tối cao lựa chọn và Chánh án TAND tối cao công bố, việc chuẩn hóa việc áp dụng án lệ đã có tiến triển tốt, tạo cơ sở cho việc áp dụng án lệ. .
Trích dẫn và tài liệu tham khảo:
[1] ghestin, g.goubeaux, giới thiệu chung, nxb. l.g.d.j (bản 4e), mục 236, [đỗ văn đại, Nguồn pháp luật, Tài liệu chuyên đề “Những vấn đề lý luận về luật”, trang 41]
[2] Nguyễn Thị Hội, Về khái niệm nguồn pháp luật, tạp chí luật học, số 2/2008, tr 29, 30.
[3] nguyễn minh doan, nguyễn minh đức (2013), “tạo nguồn pháp luật đáp ứng yêu cầu của yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 23 (255)) 1, trang 3
[4] Nguyễn Thị Hội, Về khái niệm nguồn pháp luật, tạp chí luật học, số 2/2008, tr 29, 30.
[5] đình văn thương mại, pham hong thai, (2009), lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Giao thông vận tải, tr 310
[6] Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 114
[7] https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english-vietnamese/custom
[8] Bryan a (1999), từ điển luật của người da đen. Ga-na. Tổng biên tập. đá Anh. Paul, MN, trang 390.
[9] Nguyễn Thị Hội (2008), “Khái niệm nguồn pháp luật”, tạp chí luật học, (2), tr.29
Xem Thêm : Dàn ý phân tích tác phẩm Rừng xà nu | Văn Mẫu 12 – Đọc Tài Liệu
[10] Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015
[11] Trường Đại học Luật Hà Nội (2015) Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 115
[12] Nguyễn Văn Hiển, Hoàng Công Dũng (2014), Một số vấn đề pháp luật, bản chất của pháp luật và nguồn của pháp luật, trích trong Nguyễn Văn Hiển, Bàn về hệ thống pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 21
[13] Deidre Howard-Wagner, “Legislation to Disenfranchise Indigenous Rights” (2008) 12 Văn hóa Văn bản Pháp luật 45, 58-9) [Đại học Luật, Thành phố Hồ Chí Minh. hcm (2014), Nhân quyền trong Luật pháp Quốc tế và Việt Nam, Press. hồng đức, tp hcm, tr357]
[14] Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb. tư pháp, Hà Nội, tr. 354-355.
[15] Phan Nhất Thanh (2006), “Khái niệm và các nguyên tắc của tiền lệ pháp – một hình thức pháp lý cụ thể trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ”, Tạp chí Khoa học pháp lý (5), tr 36.
[16] Tòa án nhân dân tối cao (2012), Quyết định số 74/qd-tandtc ngày 31/10/2012 phê duyệt dự án “Xây dựng án lệ”.
[17] pham thi duyen thao (2012), Giải thích pháp luật ở Việt Nam ngày nay, Luận án luật, mã số 62380101, tr.132.
[18] https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/anle
[19] cao vu minh, nguyen duc nguyen vy (2015), Đa Dạng Hình Thức Pháp Lý Ở Việt Nam, http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201504/da-dang-hoa – hinh- thuc-phap-luat-trong-dieu-kien-viet-nam-hien-nay-297543/, cập nhật 28/04/2015
[20] Quốc hội (2015), Điều 26, 29, 658… BLDS 2015.
Một số nguồn luật cơ bản của Việt Nam
Thưa Thầy. Nguyễn Nam Phương
Khoa Luật Đại học Cần Thơ
Tóm tắt:
Bài viết làm rõ một số khái niệm về nguồn pháp luật và một số nguồn pháp luật cơ bản ở Việt Nam. Bài viết cũng bàn về mối quan hệ, khả năng áp dụng và hỗ trợ lẫn nhau giữa các nguồn luật này.
Từ khóa: Nguồn pháp luật, văn bản pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp.
[Tạp chí Công Thương – Thành tựu Nghiên cứu Khoa học và Ứng dụng Công nghệ,
Ngày 8 tháng 4 năm 2021]
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Các nguồn luật cơ bản ở Việt Nam. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn