Cùng xem Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà chọn lọc trên youtube.
Sông Đà là một trong những bài “khó nhằn” ở lớp 12 nhưng lại là một trong những bài trọng tâm của chương trình Ngữ văn và có khả năng thi tuyển đầu vào cao. .Vì vậy, hôm nay chúng tôi xin giới thiệu những bài văn mẫu để bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ và đẹp như tranh vẽ của Đại Hà đã được chọn lọc. Hi vọng chúng giúp ích cho các bạn trong quá trình học tập và ôn tập.
1. Tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Tuyển sinh năm 1910 mất năm 1987 trong một gia đình Nho giáo vào thời kỳ suy tàn của Hán học. Anh sinh ra trong một làng nghề làm đồ gỗ mà bây giờ là quận thanh niên chính của Hà Nội.
Từ 1948 đến 1968, ông làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Hồ Chí Minh.
Nguyễn Tuấn là một nhà văn lớn, một người suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học nước ta. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông đã cống hiến hết mình cho cách mạng và tự nguyện cầm bút để phục vụ cuộc đấu tranh.
Tác phẩm chính: Ngày xửa ngày xưa, Một chuyến đi, Quê hương, Đại Hà, Hà Nội, Chúng ta giỏi đánh nhau…
Ông là nhà văn có cá tính độc đáo, cảm xúc mạnh mẽ, giàu cảm xúc, lối viết đẹp, v.v. Từ vựng phong phú, câu văn xuôi được tổ chức tốt và âm nhạc du dương. Sự uyển chuyển, hài hòa, uyển chuyển và tinh tế của bản phối…
2. Lập dàn ý và cảm nhận vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của Đại Hà:
Phần mở đầu: Giới thiệu tác giả của tác phẩm
Văn bản:
Nét thơ mộng của dòng sông:
– Torrent giờ chỉ còn là hoài niệm. “Thuyền em lênh đênh trên sông lớn” – câu mở đầu đoạn văn hoàn toàn bằng phẳng, gợi cảm giác thanh tao mơ màng trong khí chất văn nhân, những suy nghĩ lặng lẽ chồng lên nhau tạo nên chất thơ.
<3
So sánh bờ sông hoang sơ với bờ sông tiền sử, thật hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa, gợi nhớ về sự bao la, lãng mạn và hiện thực của dòng sông.
– Đan xen giữa cảnh và nhân vật có thật: tiếng còi, chú nai ngộ nghĩnh ngước nhìn khách sông lớn. Cảnh tượng này đã khiến người tình bé nhỏ của Đại Giang cảm động cả trong thực tế lẫn trong giấc mơ.
Nghệ thuật:
– Hãy hành động: Sự vùng vẫy của đàn cá đủ làm tôi sợ hãi.
– Cái tĩnh lặng đầy bất ngờ, lúc lại thay đổi: thuyền trôi, tai nai dựng đứng, cỏ sương, sương sáo, cá mú xanh bơi lượn. Khung cảnh sống động, không giả tạo, mang không khí năng động của cuộc sống đa chiều
*Nhà văn mở lòng với sông, trở thành sông để lắng nghe nhịp sống mới, để nhớ, để yêu sông, yêu quê hương:
– Trân trọng vẻ đẹp của dòng sông lớn, cảm nhận được những tình cảm liên quan đến lịch sử trong lòng, hoài niệm về người già: nhắc đến các vị thần của thời đại.
– Trước vẻ đẹp hoang sơ, tác giả liên tưởng đến tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
– Mở lòng biến thành dòng sông tình quê hương: nhớ thác nghe câu hát, cho thuyền trôi, hoa nở.
Kết luận: Đánh giá lại giá trị nội dung và nghệ thuật.
3. Bài mẫu 1 Cảm nhận hương sắc thơ mộng của dòng sông lớn
Xem Thêm : vario nâu nhám
Nguyễn Tuấn là người “cả đời theo đuổi cái đẹp”. Tác phẩm của ông là những trang sống động về con người và thiên nhiên, tràn đầy cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò qua sông lớn” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mỹ của nhà văn. Trong văn Nguyễn Tuấn, Dahe hiện lên hung bạo như một con “quái vật biển nham hiểm và hung dữ”, và dịu dàng, trìu mến như một người đẹp Tây Bắc.
“Người lái đò sông lớn” được tác giả sáng tác trong một chuyến đi thực tế đến vùng núi Tây Bắc Trung Quốc. Các tác phẩm được sáng tác trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đặc biệt trong chuyến hành trình năm 1958, Ruan Jun được sống hòa đồng với con người và thiên nhiên Tây Bắc. Điều này đã trở thành một nguồn cảm hứng tuyệt vời cho bài viết của mình.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung dữ, hùng vĩ và dốc đứng của một dòng sông nhiều ghềnh thác. Đó là sự dữ dội của việc đắp bờ bằng đá lởm chởm, cảnh dòng thác cất tiếng hát “nước đụng đá, đá đụng sóng, sóng ngược gió”, cảnh rùng rợn của vịnh; cảnh gào thét thác nước, dòng sông sinh tử… Kết thúc đoạn trích, tác giả chủ yếu nhắc đến vẻ đẹp trữ tình của Đại Hà.
Nguyễn Tuấn nhìn sông lớn từ nhiều góc độ. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống – với tầm nhìn bao quát. Từ điểm nhìn này, tác giả hình dung Đà Giang như một thiếu nữ xinh đẹp với nét mặt đằm thắm: “Sông nước chảy như nét, tóc ẩn trong tóc Mây trời Tây Bắc hoa gạo nở tháng hai, khói núi cuồn cuộn, đàn mèo rừng đốt ruộng xuân là hình ảnh ẩn dụ “Hình ảnh dòng sông như sợi tóc” và “nước chảy dài” như mở ra trước mắt. Đập vào mắt người đọc, dài vô tận Dòng sông, mái tóc của dòng sông như kéo dài ra vô tận, trùng điệp giữa màu xanh bát ngát và núi rừng im lìm Hình ảnh ẩn dụ “như mái tóc trữ tình” khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp sửng sốt của dòng sông lớn. Nó như một kiệt tác của đất trời, từ “áng” ngày thường gắn với ang thơ, ang văn, nay chúng được kết hợp với “tóc” và trở thành “mái tóc trữ tình”. động từ “nở” và “tung bay”, kết hợp với những bông hoa gạo trắng, hoa gạo đỏ cả rừng hai bên nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp của người thiếu nữ.Tóc như mây, như hoa như xuân, như mộng và ước mơ.
Hơn thế, vẻ đẹp trữ tình của Dahe còn được Nguyễn Thuấn thể hiện qua những bức tranh tả thực bằng màu nước. Câu văn thể hiện tình cảm thiết tha của Nguyễn Côn với sông nước Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn: “Mùa xuân say sưa nhìn mây bay qua sông, sang thu mây soi bóng nước sông”. Mây trên trời làm nên vẻ đẹp của dòng sông lớn, Hoàng đế Ruoyutong thấy rằng sông Hương có màu xanh đậm, và mặt trời “sáng xanh, chiều vàng, chiều tím”. Như bông hoa vì bóng mây phản chiếu Đóa hoa phù du Nguyễn Tuấn phát hiện Màu nước sông lớn thay đổi theo mùa Mùa xuân nước sông lớn xanh màu ngọc bích chứ không xanh màu hến của Ganhe và Luohe.” Ngọc lam là màu xanh trong, sáng, xanh da trời—một màu gợi cảm, sảng khoái. Đó là màu của nước, là màu của núi, là màu của trời. Vào mùa thu, nước sông lớn từ từ chín, đỏ như da người, mặt đỏ như rượu, người đỏ bừng, tức giận. Trong câu sử dụng hình ảnh ẩn dụ “đỏ dần như mặt người nhuộm đen rượu” khiến người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp dễ thay đổi của màu nước sông. Đồng thời, Nguyễn Tuân cũng dùng câu này để làm nổi bật sự dữ dội của sông nước Tây Bắc trong những bài thơ trữ tình thôn quê của mình.
Tác giả quan sát kỹ, và với những câu thơ, Nguyễn Tuân đã để ngòi bút của mình lội ngược dòng. Tác giả so sánh Dahe với một người bạn cũ ở xa, mong gặp lại và ngây ngất. Khi bắt gặp ánh nắng rọi vào mắt, ngoài trời, nhà văn thấy dòng sông lớn trong nắng đẹp “Tháng ba chiếu màu nắng.” Trong bài thơ Đường nổi tiếng “Trong cung, hạc vàng tiễn anh đi lên quang lang” – Nguyễn Tuân như ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ kính của sông nước Tây Bắc. Dòng sông gắn liền với bài thơ ca dao gợi cảm giác thân thương. Gặp lại dòng sông lớn, anh nhận ra dòng sông “vui như thấy “sau cơn mưa trời trong, vui như vừa tỉnh giấc mơ”. Chiều sâu: Hiền hậu, đáng yêu, phảng phất hơi ấm tình người, dòng nước sông đã trở thành người bạn thủy chung, thủy chung, lặng lẽ Kiên nhẫn chờ đợi những người từ phương xa trở về Khẳng định hoặc miêu tả cảnh tượng ấn tượng bên bờ sông Người đọc dường như như lạc vào chốn thần tiên, chốn bồng lai tiên cảnh. Câu “thuyền em lênh đênh trên sông lớn” đầy sức quyến rũ, tạo cho người ta cảm giác thanh bình, yên ả, tĩnh lặng. Nội dung này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ, hoang sơ trên cả hai bên bờ sông lớn.Đúng như tác giả so sánh “Bờ sông cằn cỗi Như bãi sông tiền sử”Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xa xưa. Phép so sánh độc đáo sử dụng không gian để gợi thời gian, mở rộng phạm vi, tô đậm vẻ đẹp thuở ban đầu hồn nhiên, trong sáng và giản dị.
Cảnh hai bên bờ sông hiện ra trong bài được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả khá chi tiết. Trong sự tĩnh lặng của thiên nhiên, trong khung cảnh sương đêm còn chưa tan, người viết thấy một khung cảnh tràn đầy sức sống Điều khiến em ấn tượng nhất là “đàn nai cúi đầu ăn ngọn cỏ đẫm sương đêm”. . Vẻ đẹp ấy đầy hương sắc nên thơ và đẹp như tranh vẽ. Thiên nhiên như một bức tranh màu nước tuyệt đẹp. Nó làm chúng ta nhớ đến một cảnh trong một câu chuyện hư cấu của Trung Quốc, trong đó một ngày nọ, một ngư dân chèo thuyền ngược dòng nước và lạc vào một xứ sở thần tiên. Có lẽ câu thơ về dòng sông lớn của Nguyễn Tuân cũng toát ra một câu chuyện khơi gợi trong tâm trí người đọc vẻ đẹp của những dòng sông Tây Bắc – cội nguồn của tình yêu quê hương đất nước.
Đoạn trích kết thúc bằng hình ảnh “cá đớp…đuổi nai” và hình ảnh dòng sông lớn gợi lên tiếng “sóng nước…” đầy chất thơ, hình ảnh càng trở nên xúc động, trìu mến, xúc động.
Tóm lại, Nguyễn Tuấn miêu tả dòng sông như một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm nghệ thuật do thiên nhiên ban tặng để tô điểm cho đất nước; Trang sách đã khép lại nhưng tâm hồn người đọc như đang bồng bềnh trên dòng sông “ngây thơ như cổ tích”.
4. Bài mẫu 2 Cảm nhận hương sắc thơ mộng của dòng sông lớn:
Trong thời kỳ kháng Nhật cứu nước, sông ngòi, ruộng đồng, đất đai, làng xóm, cùng chung sống, cùng chiến đấu với con người đã biến thành văn học, thành quê hương, thành vẻ đẹp của quê hương. Một dòng sông Mã buồn man mác, một dòng sông Đuống lững lờ chở hình bóng đất nước… Với Người lái đò trên sông lớn của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác lên ghềnh, thả hồn con thuyền trôi trong miêu tả. Thơ trữ tình về dòng sông lớn: “Dòng sông lớn thuyền tôi trôi… ngược dòng”.
Nếu ví người lái đò trên sông lớn như một bài ca dài có tiết tấu sôi nổi, sâu lắng thì câu thơ trên là câu ca dao êm dịu nhất. Không những thế, đoạn văn này còn giống như một bài thơ, với nhịp điệu mềm mại. Trong cuộc hành trình trên, ta gặp con đò của người lái đò, đó là con đò thơ của hồn thơ. Nhưng phải chăng vì cả người lái đò và tác giả đều là nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ là một dòng dữ dội và một dòng dịu dàng êm đềm? đơn giản. Đắm mình trong những câu thơ tứ tuyệt ấy, không gian liên tưởng của người đọc được mở ra bằng sự so sánh.
Các nhà văn khác thường so sánh sự vật theo một cách riêng, còn Nguyên thì tuân theo, sự so sánh của anh kích thích sự vật và mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe ông ví von: “Bờ sông cằn cỗi như bờ lũ. Bờ sông hồn nhiên như chuyện cổ tích. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình, “bờ sông hồn nhiên như chuyện cổ tích xưa .” Từ cái cụ thể. Giữa những hình ảnh hữu hình, “bờ sông” gợi lên bao “bờ tiền sử”, “cõi cổ tích” vô hình. Câu trên nghe trống vắng, xa xăm. Câu sau đầy cảm xúc.
Nhớ lại tuổi thơ của mình, tác giả tiếp tục miêu tả dòng sông “lấp lánh như chiếc gương chơi của trẻ con, soi vào mắt rồi ùa về phía trước”. Tuổi thơ như một khoảng thời gian diệu kỳ trong tâm hồn. Và tuổi thơ đồng hành cùng mỗi người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhân của hòa bình, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử. Trên đây, Nguyễn Tuân đã nhìn vấn đề này từ chiều sâu của lịch sử và từ góc độ “sự tĩnh lặng” của cảnh sông nước theo nghĩa truyền thống. Dòng sông tưởng như êm đềm lại càng êm đềm hơn do được bổ sung thêm hàng trăm năm lịch sử.
Tiếp nối sức mạnh năm xưa là hình ảnh đôi bờ – bờ sông tiền sử. Tương lai ngập tràn niềm vui khi nhà văn “mơ về tiếng còi tàu kinh ngạc”. Như vậy, văn nguyên tuân đưa người đọc từ thế giới này sang thế giới khác một cách uyển chuyển và khéo léo. So sánh với một bến tàu như vậy, phải chăng Nguyễn Nguyên đã viết một bài thơ theo quan niệm thơ ca của mình là “đánh thức cái vô hình to lớn khỏi cái hữu hình, mở ra chiều không gian và thời gian từ một góc độ nhất định”?
Hơn nữa, ông còn so sánh đối tượng với tình cảm, cảm xúc bằng những hình ảnh “cổ tích xưa” hay “dòng sông chảy như hoài cổ… dòng sông như lắng nghe…” Nguyễn Tuân bước xuống dòng sông để lắng nghe và cảm động, đầy thơ mộng và đẹp như tranh vẽ. Thật nên thơ và đẹp như tranh vẽ khi thả hồn bay bổng và mơ mộng với những vần thơ rung động! Thế giới vật chất và thế giới tinh thần xa xôi được kết nối với nhau qua những liên tưởng của nhà văn. Phải chăng dòng sông đang “nhớ” và “nghe”, hay chính nhà văn đang hồi tưởng và lắng nghe những xúc cảm của cuộc đời?
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện trong bút pháp thơ của Nguyễn Duẩn. Câu đầu của đoạn “Thuyền em lênh đênh trên sông lớn” nhịp nhàng, nhanh nhẹn hệt như những câu thơ lục bát. Vần và điệp âm “t” sau “i trôi” gợi hình ảnh con thuyền lênh đênh trên sông. Một thanh ngang giữa hai thanh bằng ở hai đầu câu như tạo sự ngắt quãng về cảm xúc. Con thuyền lênh đênh nhưng dường như không bồng bềnh, giống như những nỗi niềm luôn ẩn chứa trong con thuyền. Và câu thơ “thuyền em trôi” là một điệp khúc thầm lặng xuyên suốt đoạn văn. Đó là một sự trùng hợp rất điển hình của thơ hay, và đó cũng là một sự trùng hợp của cảm xúc.
“Thuyền em trôi trên đồng lúa…”, “Thuyền em trôi giữa sông lớn…” Dường như con thuyền tâm hồn của người đọc cũng đang trôi theo những âm thanh bất chợt của dòng suy nghĩ. Tâm hồn con người như hòa tan vào cảnh vật. Thuyền cũng lênh đênh trên sông, sông trôi theo câu ngắn, câu dài, câu dài. Câu văn có lúc dài, lúc ngắn, linh hoạt như dòng sông chảy xiết, chảy xiết?
Câu nói “Giang An ngây thơ như cổ tích”, Tiểu Sát ngầm muốn im lặng, kìm nén cảm xúc đang trào dâng. Ngoài những câu bắt đầu bằng sáu giọt, còn có những câu có nhiều giọt hơn như “ngắm em trôi về…”. Những hàng rào đó dường như muốn ổn định và chú ý đến cái nhìn của chú nai con trong giây lát. Tuy nhiên, hai từ “cẩn thận” và “từ từ” trong một câu ngắn gọn dường như chứa đầy tình cảm. Ngoài ra còn có các từ láy, lác đác, xa xôi, lặng lẽ gợi cảm, giễu cợt. Bên cạnh phong trào thơ, tranh là làn điệu trìu mến, tiếng hát êm ái, chất thơ, tranh đầy ước lệ nghệ thuật.
Một chất mộng mơ còn bao trùm cảnh sông nước của những chú nai béo nhất: “lá ngô non”, chồi non, chồi cỏ, những con vật hiền lành: bầy nai con ngây thơ, đàn cá nhím xanh biếc. Khung cảnh nên thơ, đẹp như tranh vẽ như bước ra từ chốn thần tiên nào đó, dù thật hay giả, xa hay gần đều được bao phủ bởi một lớp “cỏ đêm”, “sương cỏ” và sương “còi” huyền bí. Như một linh hồn lần đầu tiên chạm trán với màu xanh của cuộc đời.
Những câu văn tươi xanh như đánh thức phần non trẻ nhất của lòng người, đánh thức một bài thơ xuân tuyệt vời “Mắt Xanh Nhìn Đời”. Có thể hình dung đây là một buổi sáng mùa xuân trong lành, mùa xuân của sự sống, mùa xuân của tâm hồn. Mỗi câu của “manlu” là một bức tranh, dường như là một và khác biệt. Một màn sương cứ lan tỏa trong tâm trí người đọc, như gợi nhắc người ta về biết bao truyền thuyết xa xưa, những xứ sở thần tiên kỳ ảo. Cả chúng tôi và Nguyễn Tuấn đều choáng ngợp trước cảnh tượng tuyệt vời nhất của thiên nhiên. Nó có sự sống riêng trong ba dòng chữ “cha”, “em”, “lá”, và có sự mềm mại trong “đống”. Ấn tượng nhất với tôi là cỏ, chúng ta chỉ nghe thấy “cỏ lưỡi”, “cỏ sóng”, chứ “cỏ nảy mầm”, “cỏ sương” có lẽ chưa bao giờ được nghe.
Nếu như đại thi hào Nguyễn Du miêu tả ngọn cỏ là minh chứng cho sự hòa hợp kỳ lạ giữa thiên nhiên và con người, thì Nguyễn Tuân ngày nay dành cho ngọn cỏ những nét đẹp thơ mộng nhất. Màu xanh của thảo nguyên bao la nhuộm đỏ khán giả – Ruan Tuanshi.
Khổ thơ cuối cũng đạt đến tứ thơ đặc sắc với nghệ thuật tả thực cổ điển. Khung cảnh vắng lặng đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá vỗ. “Tiếng cá rơi xuống sông, đàn nai tản mác”. Phải chăng sự tĩnh lặng trong tâm hồn Nguyễn cũng đang tiếp thu âm hưởng thi ca của cuộc sống, sự sống chớm nở trong lá ngô non non, mầm cỏ non khỏe khoắn trong tiếng mồi câu?
Xem Thêm : Tải Ultra Video Joiner 6.4 Full Crack, ghép nối video chuyên nghiệp
Con nai xuất hiện rồi chạy trốn, phải chăng trong giấc mơ của Nguyễn Khôn, mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn với sự hồn nhiên? Từ điệp khúc xanh mướt của đọt non và bắp non, cỏ non, tác giả chỉ ra màu trắng của bụng cá. Dùng nghệ thuật hội họa cổ điển để khám phá hết sự hồn nhiên của cuộc sống.
Trong không gian tăm tối ấy, tác giả bỗng “muốn giật mình hú lên”. Lấy bối cảnh Phú Thọ-Pai-Lai Châu vắng bóng những chuyến tàu, câu văn này như tiếng kêu đầy phấn khởi của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958-1960). Đó là khi bài thơ hay ra đời.
Yêu những dòng sông mênh mông hai bên lúa, yêu con đường ca hát công trường mới.
Tiếng còi sương tuy hư cấu, là tiếng nói trong lòng nhưng lại thể hiện khát vọng rất hiện thực của tác giả. Háo hức nghe tiếng còi tàu quý giá, như một con báo.
Mắt tôi mong trăm ga. (Bài hát xe lửa)
Nhưng “muốn giật mình” đáng giá hơn, bởi vì Nguyễn Tôn khao khát cảm giác khi nghe thấy tiếng hú từ phía tây bắc. Tôi đã từng đánh giá cao sự “tự nhận thức” của Joe để gây chấn động thế giới và đồng cảm với nỗi nhớ “nghe thấy tiếng ếch kêu” của DuPont, nhưng bây giờ có thêm một điều bất ngờ. Tương Lai Tác Giả Đại Ca. “Đại Hà” của Nguyễn Nguyên là một tác phẩm văn học mới trong thời đại mới.
Trước cách mạng, ông “xê dịch” để tìm cảm giác mới, trốn tránh trách nhiệm, và sau ngày đất nước đổi đời, ông đi tìm bóng hình quê hương và nhận lãnh trách nhiệm. Hạnh phúc không quên, quan tâm đến mọi người và cuộc sống mới, thực sự, chính là kiểu suy nghĩ này mà Wen Ruan tuân thủ “đối thoại” với trái tim độc giả. Cùng với tiếng hát của thuyền thơ, tiếng sáo của Nguyễn Tuân, mái nhà tranh của Du Du, “ngói mới” của Hoàng đế Xuân… tô thêm sắc màu mới cho thơ và phản ánh sắc màu mới của cuộc sống. nông thôn. dân tộc. Cuộc sống mới tràn vào trái đất, và con nai dường như đang lắng nghe tiếng rít của những giọt sương. Cảnh có màu sắc và âm thanh, ngay cả trong tâm trí.
Bốn câu thơ cổ để lại trên sông càng làm tăng thêm thi vị: “Sông lớn bồng bềnh trôi, cảnh vạn cảnh vạn vật”. Nguyễn Tuân đã chọn một bài thơ rất trữ tình của một nhà thơ ở Dahe quê ông, và sống hết lòng với Dahe. Câu thơ ấy, kết hợp với dòng thơ “làm thơ” tuyệt đẹp của Nguyễn Thao trong tiếng sóng sông lớn, dường như khẳng định sự tồn tại của một kiếp người đã từng song hành cùng sông lớn? Chèn vào thơ Tản Đà lập tức đánh thức tình cảm con người, không khí ấm cam của tình cảm con người. Tình yêu vốn đã phong phú nên những câu tiếp theo chứa đựng những cảm xúc “nhớ thương”, “nghe khúc hát ngọt ngào”.
Có dòng sông Dahe phi nước đại chảy dài vô tận trên bầu trời Tây Bắc mang hương sắc thơ mộng của sông núi, có dòng sông Dahe chảy vào lòng người ở Wanwan Tuan. Văn học làm cho thiên nhiên tươi đẹp hơn. Non sông muôn đời ở bên dân, và những lời hay ý đẹp của Ruan Jun sẽ mãi là hành trang của mỗi cá nhân và dân tộc tiến lên trong cuộc sống hôm nay.
5.Bài mẫu 3 Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng và nghệ thuật của dòng sông lớn:
Là một người có tâm hồn tự do, Nguyễn Tuấn cho rằng “đời là nhật ký”, đời là chơi, viết cũng là chơi. Từ thời thanh niên tiền khởi nghĩa, đi bộ đã trở thành một lý tưởng, một triết lý sống. Trong “Vinh quang một thời”, Nguyễn Duẫn phát hiện ra rằng, thời hoàng kim đôi khi rất gần gũi với sinh hoạt hàng ngày của con người, bởi vì con người vô tình lãng quên. Đây là những thú vui tao nhã, là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Uống rượu (“Hương”), vô liêm sỉ (“Thơ mùa thu,” “Làm thơ chơi,” “Cảnh cuối thu”); tài năng (“Trên đỉnh đồi”), tài năng đẹp đẽ (“Chặt một cành cây,” “Ném bút chì”) và Nhân cách cao đẹp (“Words of the Condemned”)… là vẻ đẹp mà con người sở hữu. Nếu vô tình quên, có thể kiếp sau cũng không biết.
Cái đẹp luôn hiện hữu trong tâm trí chúng ta, cái đẹp của “bóng vàng dĩ vãng” cũng giống như lời của Ngô Tư Bản: “Dương bóng ngày xưa như ánh chớp hôm nay”. Cùng tận chân trời, dù cảnh có xa lạ thì nhà văn vẫn có thể trở thành “người quen mà cảnh đã quen”. Nhờ óc quan sát, ông tỉ mỉ trong từng khâu nhìn, sờ và ghi nhớ. Nhà văn nguyện mãi mãi đi trong vô định: “Tôi sống với phố, với những người đi trên nó, với đạo đức của người đi đường” (Vali Mới). Tâm hồn cô đơn, bơ vơ, lang bạt của ông trước cách mạng được thể hiện sinh động trong “Vô gia cư”, nhân vật thiên thần luôn muốn đổi chỗ ở, lang thang trên những con phố dài vắng vẻ. Không có bắt đầu và không có kết thúc. Họ kéo theo cái đầu trống rỗng, cơ thể thối rữa và nỗi uất hận ngàn năm chưa gột rửa, họ dùng chiếc xe tải như một phương án cuối cùng.
Lướt theo hành trình của Nguyễn Tuân như vậy, ai cũng có thể cảm nhận được nhà văn đã “biến hóa” như thế nào trong “Văn xuôi Sông Đà” sáng tác năm 1960. Một bài viết dựa trên “tuổi trẻ nhiệt huyết và đam mê của tất cả công nông” xã hội chủ nghĩa lãng mạn tiểu thuyết với chủ đề “Con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa” đã xuất hiện từ lâu trên trang web. Báo chí sau cách mạng. Tiêu biểu nhất là đoạn văn xuôi đẹp, giàu sức sống và trữ tình trong “Người lái đò sông Lớn”.
Nhà văn pautopxki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường dẫn đến nơi đẹp đẽ. Bước vào thế giới văn học nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp. Quả thực, Nguyễn Tuân là một nhà văn thực sự, người dẫn dắt người đọc cảm nhận vẻ đẹp của Dahe Đẹp, không chỉ đầy bạo lực, mà còn rất trữ tình và thơ mộng.
Hình ảnh Lyric Dahe được thể hiện từ ba góc nhìn. Thứ nhất là góc nhìn từ trên cao bằng máy bay, thứ hai là góc nhìn của lão nông rừng già gặp sông lớn và người lái đò trên dòng sông xuôi dòng; cuối cùng là góc nhìn của người yêu cũ, người yêu. Nhà văn miêu tả dòng sông như một tác phẩm nghệ thuật, một bức tranh cuộn tô điểm cho sông núi do thiên nhiên ban tặng, ông xem xét dòng sông bằng con mắt thẩm mỹ và có phong cách riêng. Dù ở góc nhìn nào, tác giả cũng có thể thể hiện trôi chảy vốn kiến thức phong phú của mình về văn hóa, điêu khắc, điện ảnh, lịch sử, hội họa, văn học và nhiều lĩnh vực khác. Trang nghiêm như mái tóc dài, mượt mà đến mức phải nói đó là tài văn chương của họa sĩ họ Nguyễn.
Từ trên máy bay nhìn xuống, Daxibei trông như một thiếu nữ duyên dáng và đáng yêu, trong khi Dahe là mái tóc mềm mại của một thiếu nữ khao khát tuổi trẻ. Nguyễn Tuân nhìn dòng sông uốn khúc, như sợi tóc trữ tình bồng bềnh vắt qua núi rừng hùng vĩ. Rất đẹp và rất độc đáo! Tác giả sử dụng câu văn dài, ít câu gãy để miêu tả chiều dài của dòng sông và mái tóc của cô gái. Đồng thời, tâm hồn Tây Bắc được dùng để miêu tả dòng chảy êm đềm của sông lớn “Sông lớn chảy dài như dòng chảy trữ tình, ẩn hiện hương mây trời Tây Bắc. Khói mèo bay lên mây khói”. đốt đồng”. Mùa xuân”. Từ “dòng chảy” đi cùng với nhịp điệu nhẹ nhàng như lời ru tạo nên vẻ đẹp sinh động, tươi đẹp của dòng sông. So sánh dòng sông với hình ảnh “biểu” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Hình ảnh so sánh đầy thi vị và đẹp như tranh vẽ không chỉ thể hiện vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng của dòng sông lớn mà còn thể hiện sự đằm thắm, lãng mạn của người nghệ sĩ, tựa như cô gái đang độ xuân thì dưới làn mây bồng bềnh, mái tóc buông xõa giữa những bông lúa. Cái thần của thiên nhiên ở đây được Ruan Zun mô tả là đẹp. Nó độc đáo, kỳ lạ và nên thơ. Có khói trên núi, mèo Đốt ruộng mỗi ngày.
Sự thơ mộng, trữ tình của trời đất hiện lên trong câu văn của Nguyễn Tuấn——“Thợ rèn chữ” (hoài thanh)
Hương vị thơ mộng, đẹp như tranh vẽ của dòng sông lớn còn thể hiện ở màu sắc đặc biệt của nước sông. Nguyễn Tuân say mê vẻ đẹp của dòng sông lớn và phát hiện ra sự thay đổi, đổi màu của nước trên sông. Dahe xuất hiện với vẻ đẹp lạ và quyến rũ, giống như vẻ đẹp của nghệ thuật mê hoặc lòng người. Dòng sông lớn luôn tự làm mới và tự làm đẹp, màu sắc của dòng sông lớn thay đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân say mê, ngưỡng mộ vẻ đẹp của dòng sông và viết lên giấy, như một nhà nho say rượu. Sông nước Tây Bắc phi nước đại và lãng mạn biết bao! “Mùa xuân say mây bay sông lớn, mây thu nhìn sông lớn”, lúc này người họa sĩ thả hồn mình trên sóng nước sông lớn, cảnh đẹp mây trời Tây Bắc. Hoa nở, mang hạt xanh. Khi bức tường ngọc của cung điện hoàng gia nhìn ra sông Hương trong ánh nắng ban mai rực rỡ, nó thể hiện những màu sắc độc đáo của thiên nhiên. Nguyễn Tuân đã viết rằng những sắc màu “sớm lam, chiều vàng, chiều tím” được tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên hai bên bờ eo biển và những suy tư của trời đất. Hãy kể về dòng sông lớn bằng các giác quan nhạy bén của mình.
Sông lớn mùa xuân có màu xanh ngọc bích chứ không phải “màu xanh của hến ở sông Ganluo”. Màu xanh cũng vậy, nhưng màu xanh ở đây là sự kết hợp hoàn hảo của vẻ đẹp, thuần khiết, xanh và gợi cảm, một màu xanh tươi mát bồng bềnh trong nắng mai nhưng lại lấp lánh ở hàng cây bên sông. Màu xanh ấy phải chăng là giai điệu xanh của cỏ cây, xanh của rừng, xanh của núi, xanh của trời, màu xanh hùng vĩ và màu xanh thiên nhiên mà tạo hóa ban tặng cho nơi đây như có phép màu. Vào mùa thu, nước sông lớn “đỏ như rượu làm đau mặt người ta”; “kẻ bất mãn ngày ngày giận đỏ mặt.” Một ẩn dụ độc đáo được sử dụng trong câu khiến người đọc hình dung ra vẻ đẹp của sự thay đổi. màu nước sông lớn. Lần đầu tiên có người dùng màu da người để miêu tả vẻ đẹp của dòng sông. Có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới có thể nhìn thấy, cảm nhận và viết nên “hoàng hôn” màu đỏ. Nó chỉ có thể được tạo ra bởi bàn tay của một người. Đặc biệt, phải khẳng định rằng, nước sông lớn tuy có nhiều màu nhưng chưa bao giờ đen như khi “thực dân Pháp xâm lược đổ sông simex, a pê đê”. Qua những câu miêu tả màu sắc của dòng sông lớn, Nguyễn Tuân còn làm nổi bật vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của non nước và sự hung dữ của dòng sông nơi đất tổ. Trong thế giới giấy, những trang này giống như “một bức tranh được cảm nhận hơn là được nhìn thấy”.
“Sexy Dahe” – một lời khẳng định chắc nịch. Dưới góc nhìn của những người thợ rừng già, người lái đò xuôi dòng và những cố nhân gặp lại sông lớn, những sân khấu cận cảnh quá khứ, hiện tại và tương lai của dòng sông lớn được thể hiện từ những góc nhìn khác nhau. Trong mắt người xem, dòng sông lớn hiện lên một vẻ đẹp hoang sơ, “sông lớn chỉ lối cho ai nấy đi”. Với nhà văn, đã có lúc ông xem Dạ Hà như một người bạn cũ, như một người bạn cũ gặp lại sau một thời gian dài xa cách. Nhà văn kể rằng, trong chuyến đi ấy, ông đã đi sâu vào núi thẳm rừng già rất lâu, khi trở về mới thấy sông lớn sáng ngời như trẻ thơ soi gương soi vào mắt mình. rồi lại bỏ chạy.Anh vui mừng biết bao. Như tìm lại được. câu chuyện cũ. Màu nắng tháng ba của Đường thi “Hoa hòa trong lòng Hà Dương Châu” hiện lên trên trang giấy mà như một vầng thái dương chói lọi, khi nghĩ đến ánh nắng lấp lánh chiếu xuống dòng sông xanh, ta cũng thấy vui lây. .Chúng ta đâu xa lạ gì với niềm vui sum họp “Ôi nhìn dòng sông như tắm nắng, như tỉnh giấc mộng”. Lòng ta cũng “kẽo kẹt” như nắng, lòng ta như bước vào giấc mộng đẹp trong giấc ngủ say. Rồi từ cảm xúc “bờ sông lớn, bãi sông lớn, chuồn chuồn, bướm lượn trên sông lớn” đã thực sự làm họa sĩ sôi máu: “Phải rồi, lại là ông già của anh, tuy vĩ đại – ông nội tôi. Biết là ốm nặng Nặng, có khi nhẹ nhàng dịu dàng, có khi hung dữ cáu bẳn.” Đa Hà trở thành người bạn chung thủy, một lòng một dạ và luôn chờ đợi của lữ khách Nguyễn Thuấn.
Leonit Leonop đã từng nói: “Tác phẩm phải là sự phát minh ra hình thức và phát hiện ra nội dung”. Ngoài khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ của sông núi, Nguyễn Tuân còn mang đến cho người đọc cảm giác như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới tiền sử. Câu “thuyền em lênh đênh trên sông lớn” đầy sức quyến rũ, tạo cho người ta cảm giác bình yên, tĩnh lặng và thanh thản. Tác giả đã nhìn vào lịch sử dựng nước và giữ nước của những ngày đầu dựng nước: “Dường như từ khi có Từ, Lí, Lí, dòng sông này mới êm đềm làm sao”. Cái sự tĩnh lặng, “lặng lẽ” ấy càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết của hai bên bờ sông. Đúng như ẩn dụ của tác giả “Bờ sông hoang sơ như bờ sông tiền sử Bờ sông hồn nhiên như cổ tích xa xưa Phép tương phản độc đáo dùng không gian gợi thời gian, mở rộng phạm vi, tô đậm sự hồn nhiên, trong sáng và sự giản dị của buổi ban đầu. Chữ “Ji” bắt đầu bằng Một lối thơ lặp lại hai lần rất đặc trưng, không gian tĩnh lặng đến mức không thể “lặng” được nữa. về quá khứ xa xôi.
Khi con thuyền trôi, người đọc bước vào một thế giới hoang sơ và yên bình, nơi đất trời được bao trùm trong một màu xanh hoang sơ và hồn nhiên. Tôi cũng thấy những bãi ngô “đắp lá đầu mùa” và những dấu chân người in trên cỏ xanh mỡ màng, nhưng lạ thay “không thấy bóng người”. Chỉ có những ngọn đồi bát ngát mới có “búp” ngon. Hình ảnh những chú nai xuất hiện trên những ngọn đồi bạt ngàn màu xanh đã tạo nên một cuộn tranh thiên nhiên đầy màu sắc về sự “hoang sơ” và “bất tử” của dòng sông. Không phải là chú nai vàng lẫn lộn trong tiếng xào xạc của lá thu, ở đây chỉ là: “Cỏ mọc khắp núi rừng, nai cúi đầu ăn cỏ non sương đêm”. “Giang An hoang như hồng thủy, Giang An ngây thơ như cổ tích”. Ẩn dụ của Nguyễn Tuân không cụ thể hóa sự vật mà trừu tượng hóa, thi vị hóa cảnh vật. “Bờ hoang” và “cảm giác như tiên” là câu nói nổi tiếng của bậc thầy lãng mạn này. Tác giả không dựa vào trực giác để so sánh mà dùng trí tưởng tượng của bản thân để liên tưởng, sự so sánh nên thơ và thú vị, gieo vào lòng người đọc nhiều cảm xúc và thích thú. Vẻ đẹp “hoang dại” và trong sáng của Oe. Đoạn trích kết thúc bằng hình ảnh Đại Hạ liên tưởng đến bài thơ “Tản Đà phiêu linh/Bấy nhiêu cảnh, bao nhiêu cảm” của Tản Đà. Người tình không tên càng làm cho hình ảnh dòng sông thêm lay động, trìu mến và cảm động. Dòng sông Angwenda nên thơ và đẹp như một thước phim, chuyển từ tĩnh sang động.
Dòng sông vốn êm đềm nơi hạ lưu đã trở thành dòng sông nên thơ, đẹp như tranh vẽ với nắng tháng ba, nắng chói chang sau cơn mưa rào, chiều lòng người đọc. Bài viết của Ruan Yuan. Vẻ đẹp trù phú của dòng sông lớn nếu không có sự báo trước của tác giả thì nó là vô tận, mặc dù vẻ đẹp ấy còn rất hoang sơ của Tây Bắc.
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà chọn lọc. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn