Cùng xem Phân tích và cảm nhận tác phẩm Làng – Kim Lân – Elib.vn trên youtube.
kim lan là nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với sự am hiểu sâu sắc và nỗi nhớ quê, nông dân, truyện của ông thường xoay quanh cuộc sống đời thường, hoàn cảnh, phong tục tập quán cổ truyền của người nông dân Bắc Bộ. Ruan Hong nhận xét: Jin Yu là một nhà văn trở về với “đất” với “người” và trở về với cuộc sống nông thôn “thuần túy nguyên thủy”. Truyện ngắn Đất nước (1948) là một điển hình cho cách nhận xét của Nguyên Hồng. Bằng việc vận dụng tình yêu quê, lòng yêu nước và tinh thần quật khởi của những người nông dân buộc phải bỏ làng đi tản cư của nhân vật ông Hai, kim đơn đã xây dựng thành công tình huống truyện đặc sắc, nghệ thuật miêu tả miêu tả tâm lí nhân vật sinh động với ngôn từ đầy chất nông dân và ngôn ngữ ăn nói đời thường của người nông dân.
Ông của anh yêu ngôi làng chợ dầu của mình đến nỗi đi đâu ông cũng khoe khoang về làng của mình. Nói về làng Youshi, tôi không biết người nghe có chú ý hay không, nhưng anh ấy đã nói rất nhiệt tình. Anh kể, ở làng anh nhà ngói dày đặc, đường làng lát đá xanh, mưa từ đầu làng đến đầu làng, bùn không dính gót chân. Vào ngày 10 tháng 5, rơm và ngũ cốc tốt nhất được phơi khô không sót một hạt đất. Ngày trước, ông Hải từng rất tự hào với chức trưởng thôn. Đi đâu anh ta cũng khoe, hễ gặp người ta là khoe: “Biệt thự của tôi ở Shangcun là tài sản của tôi, còn bồn hoa, cây cảnh thì như cái hang…”. Với sự ngây thơ của một kẻ ít học, anh yêu Youshicun. Anh ấy đã bị thương khi buộc phải xây dựng lăng mộ đó! Anh ta không nên khoe khoang, anh ta không nên ‘hả hê’. Còn gì để nói về nỗi đau và tủi nhục của cuộc đời? Nhắc lại quá khứ của ông Hải, Kim Lan viết với giọng điệu nhẹ nhàng và châm biếm. Sau khi cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu quê bằng tình cảm trong sáng. Anh ấy có rất nhiều thay đổi về nhận thức. Anh không bao giờ “đụng” đến “địa điểm sinh nở” ấy nữa, và anh biết trong lòng mình “ghét cay ghét đắng”. Anh yêu làng chợ dầu của Kháng chiến bằng tất cả niềm tự hào cao quý của mình! Ở làng Youshi nơi anh sống, “đó là phòng phát thanh rộng rãi và sáng sủa nhất trong toàn huyện. Tháp phát thanh cao bằng ngọn tre, buổi chiều mọi người trong làng đều có thể nghe thấy tiếng loa phát thanh.” Ông khoe làng mình “Những ngày mây gió lộng”, ông già râu tóc bạc phơ vác gậy tập binh, “nhất là hố, gò, mương làng mình đã lập công lớn. Chương trình không có “Đừng đi đâu cả!” “. Có thể nói, kể từ ngày lưu lạc, phải xa làng quê thân yêu, bao nhiêu vui buồn của kiếp trước và hiện tại chất chứa trong lòng. Trong văn của Jin Wuni, tình yêu dành cho làng quê, lòng yêu nước, hiền hậu, ông Hai, người nông dân chất phác… hiện lên chân thực, khiến người ta cảm thấy gần gũi, giản dị, dễ thương.Tình yêu quê hương đất nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người Việt Nam.
Quyết tâm đánh Nhật cứu nước và tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là những nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của Người. Trong kháng chiến chống Nhật, “ruộng là chiến trường, cuốc là vũ khí, nông dân là chiến sĩ”. Vợ con buộc phải sơ tán, nhưng ông vẫn ở lại cùng du kích “đào đường, đắp đê” bảo vệ ngôi làng Youshi thân yêu của mình. Khi gia cảnh túng quẫn, vợ con xô đẩy, phải bỏ quê ra đi, ông tự an ủi: “Không ở được với anh em ở làng thì định cư âu cũng là một kiểu phản kháng. !”.
Xa làng lại nhớ làng, tính tình ông lão có những thay đổi. Anh ít nói, ít cười, lầm lì, thậm chí còn cục cằn, đánh mắng vợ con. Anh đau khổ: “Mày làm nó khổ! Mày làm nó khổ! Nó giết hết, nó giết hết!”. Chúng tôi đồng cảm với “tâm tư” sầu muộn của anh và thương anh vô cùng!
Một điều bất ngờ đã xảy ra, bước ra khỏi phòng thông tin tôi rất phấn khởi, háo hức trước tin vui Kháng chiến, tôi gặp những người tản cư, khi nghe họ nhắc đến tên làng, Ông xem lại và ấp úng hỏi, mong Nghe tin vui từ làng mà ông không ngờ: Cả làng chợ dầu theo giặc. Trước tin dữ ập đến, ông Hải thẫn thờ: “Cổ cụ đã lịm hẳn, da mặt tê dại. Cụ không nói một lời nào, như không thở được”. Từ niềm vui, sự tự tin và hy vọng, anh rơi xuống vực thẳm của đau khổ, đau buồn và tuyệt vọng. Anh cố trấn tĩnh, tìm mọi cách để ra đi, muốn che giấu cảm xúc nhưng nỗi xấu hổ, tủi nhục và lo lắng khiến anh “cúi đầu bước đi”, chửi bới không ngớt, chẳng khác gì bọn Việt gian bán nước. “.
Về đến nhà, ông nằm vật xuống giường, nhìn đứa con mà chạnh lòng: “Nước mắt ông cụ cứ chảy dài”. Đoạn độc thoại nội tâm của ông bộc lộ nỗi niềm đau khổ: “Chúng nó cũng là con em nông thôn Việt Nam à? Chúng nó cũng bị tẩy chay sao?…”. Căm giận những kẻ theo giặc phản nước, ông già nắm chặt tay rít lên: “Chúng nó bay vào miệng ăn cơm hay sao mà chạy đi làm cái loại việt gian bán nước này nhục nhã như thế”. Điều này.” Nhưng ngay sau đó, anh ấy cảm thấy những gì mình nói không hoàn toàn đúng, và anh ấy “kinh ngạc”. Niềm tin và sự tuyệt vọng bị giằng xé giữa anh ấy. “Anh ấy đã kiểm tra mọi người trong trái tim mình”, và thấy rằng họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, kẻ thù không liên quan gì đến anh, anh không dám làm điều ô nhục đó vì sống chết có nhau, trong hoàn cảnh chiến tranh, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến là một tình cảm thiêng liêng cao đẹp; phản bội là nỗi xấu hổ lớn nhất.Vì vậy, từ khi nghe tin làng đầu hàng giặc.Sau khi biết tin, sự việc này trở thành nỗi ám ảnh và tra tấn trong lòng anh khiến anh không thể cất bước đến hôm nay.Cả ngày, anh chỉ biết loanh quanh trong không gian nhỏ hẹp ấy, nghe bộ đội bàn tán “Đông người tụ tập, anh cũng Để ý tiếng xa xa cũng lẫn lộn”, anh luôn cho rằng mọi người đang chú ý và bàn tán về “chuyện ấy”; mỗi lần nghe tiếng người Tây, người da cam, người Việt, ông đều lui vào một góc phòng và im lặng…”Đừng nói nữa! Anh luôn sống nội tâm và cảm thấy xấu hổ, buồn bã và dường như cũng có lỗi, khi bà chủ nhà hét đuổi gia đình anh đi, anh đã rơi vào tình thế tuyệt vọng vì “nghe nói có lệnh đuổi hết dân làng ra khỏi khu vực đó. để họ sống ở chợ dầu.” Ông nội thứ hai không biết đi đâu, và ông không thể về làng, vì về làng đồng nghĩa với việc rời bỏ tổ chức kháng chiến và những người già. làng nghĩa là trở về làm nô lệ của nhà Tây Hán.” Giữa hai người đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt, và họ quyết định chọn con đường của ông “làng yêu làng, làng phải thù”. làng. Nhưng ông không thể từ bỏ được tình yêu làng, ông buồn và xấu hổ. Tôi không biết làm sao để trút bỏ tâm trạng chán chường của mình, chỉ biết bày tỏ nỗi lòng của mình với lũ trẻ. Đoạn đối thoại giữa ông và người con thật cảm động, bộc lộ tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước, với cuộc kháng chiến, Người nói với con như nói với chính mình, mình bất công, tự cho mình là đúng Lời đối thoại chất chứa nỗi đau xót xa, thể hiện tấm lòng trung thành với nước Nhật, với cách mạng và với người cao tuổi.
Có lẽ, nếu không có tin đính chính, cả cuộc đời ông sẽ chết dần chết mòn, quằn quại trong đau đớn, tủi nhục và tủi nhục cho làng xóm. Nhưng sau đó, chính quyền làng ông đính chính tin làng theo giặc. Nhận tin, ông nội như từ cõi chết sống lại, ngây ngất: ăn mặc bảnh bao, rạng rỡ, miệng ngậm trầu, mắt đỏ hoe, chớp chớp, ríu rít mua quà cho các cháu… Nhất là khi ông chạy đi khoe. tất cả mọi người các tin tốt di chuyển. Niềm vui và hạnh phúc tràn ngập khiến anh giang rộng vòng tay. Và lạ thay, điều đầu tiên ông khoe không phải là làng mình không theo giặc mà là “Đốt nhà đi… Với người nông dân, ngôi nhà là tất cả những gì họ đã làm lụng vất vả cả đời mới có được. Nhưng ông không tiếc nhà ông, bởi điều đó chứng tỏ làng ông không hề theo giặc, và quan trọng hơn cả, đó là công lao “góp công” kháng chiến của gia đình ông. trái tim của.
Ở đây, ta thấy được sự sáng tạo độc đáo của kỳ lân vàng trong nghệ thuật tạo dựng cảm xúc, thật ly kỳ và kịch tính thử thách đời sống nội tâm của nhân vật, từ đó bộc lộ chiều sâu, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật. Tác giả miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, cụ thể và xúc động qua suy nghĩ, hành vi và ngôn ngữ của thế giới nội tâm. Đặc biệt, tác giả miêu tả rất đúng và ấn tượng nỗi ám ảnh kéo dài trong cảm xúc của nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân là người có sự hiểu biết sâu sắc về đặc điểm con người, tâm lý của người nông dân Việt Nam sau lũy tre làng.
Xem Thêm : TOP 30 bài văn Tả cây bàng lớp 4 hay nhất – Download.vn
Qua tác phẩm, người đọc còn nhận thấy ngôn ngữ truyện rất đặc sắc, đặc biệt là ngôn ngữ của nhân vật ông Hai. Ngôn ngữ đầy những cách diễn đạt thông tục và hàng ngày của nông dân. Lời tường thuật và lời kể của các nhân vật thống nhất về sắc thái và giọng điệu, vì câu chuyện chủ yếu được kể từ góc nhìn thứ hai, mặc dù lời kể của ngôi thứ ba vẫn được sử dụng. Tính cách và ngôn ngữ của ông Hai không chỉ có những nét chung của người nông dân, mà còn có tính cách bộc trực, bộc trực mà rất sôi nổi, thực tế và nhân hậu.
Lật từng trang sách, ta không khỏi xúc động trước tình làng nghĩa xóm của ông Hai, trong đó kể về việc nhà văn Kim Youni đã vận dụng nghệ thuật kể chuyện để tạo nên những tình huống hấp dẫn, hồi hộp. Những phẩm chất tốt đẹp cần cù, giản dị, yêu quê hương đất nước… của ông Hai thể hiện bản chất cao cả, trong sáng của người nông dân Việt Nam. Họ đã làm việc chăm chỉ để làm ra bát cơm ngon để nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu đánh giặc “giữ làng, giữ quê, giữ túp lều tranh, giữ ruộng lúa chín”… (Xin Cương).
“Quê em là chùm khế ngọt…” là niềm vui, nỗi buồn và ước mơ đẹp đẽ của mỗi chúng ta. Tổ quốc đổi mới “gạch”, thịnh vượng phồn vinh, thế giới hòa bình thịnh vượng.
<3
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Đài, sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông bắt đầu đăng bài trên báo từ trước Cách mạng Tháng Tám. Là một nhà văn có sự hiểu biết sâu sắc và hoài cổ về người nông dân và nông thôn, Kim Lan gần như chỉ viết về cuộc sống nông thôn và những nỗi khổ của người nông dân. Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Uniney viết trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là tác phẩm đặc sắc nói về lòng yêu nước của ông, xuất phát từ tình yêu quê hương, làng xóm sâu sắc. Tình và nghĩa ấy là lẽ thường tình của người nông dân Việt Nam trong buổi đầu chống Pháp.
Chuyện nhỏ ở làng kể về ông Hai, một người yêu làng, gắn bó với làng và luôn khoe khoang về làng của mình. Hễ nói đến làng là ông nói hăng say, mặc cho người nghe có chú ý hay không. Đầu tiên, ông khoe về cơ sở vật chất ở làng mình, nhà ngói san sát, đường làng toàn đá xanh, mưa làng này qua làng khác, bùn không dính gót chân. Vào ngày 10 tháng 5, rơm và ngũ cốc tốt nhất được phơi khô không sót một hạt đất. Anh cũng tự hào về cuộc sống trưởng thôn. Ông tự hào và vinh dự vì nét độc đáo và bề dày lịch sử của làng mình. Sau cách mạng, ông khoe về làng, những ngày khởi nghĩa chớp nhoáng, ông già râu bạc phơ vẫn chống gậy tập quân sự. Ông cũng cho thấy những hố, gò, hào… nhiều tác phẩm đã không còn tồn tại
Sau khi giặc về làng, ông muốn cùng dân làng ở lại giữ nước, nhưng theo yêu cầu của cấp trên, ông phải rời làng. Phải rời làng đi xứ khác, anh mang theo bao nỗi nhớ. Ở một vùng đất xa lạ, trái tim anh bị tra tấn vô tận. Có thể nói, cuộc đời và số phận của ông thực sự gắn bó mật thiết với những vui buồn ở làng quê. Lòng yêu nước của mỗi người có thể bắt nguồn từ những điều bình dị vốn thuộc về làng quê của họ như cây đa, giếng nước, sân đình. Dù ở xa làng nhưng ông lão luôn hướng về làng, khi nghe tin làng đi về phía tây, ông già “nghẹn ngào, da mặt tê rân rân” Ông lão lặng đi, như thể anh không thể thở được. Anh vô cùng đau đớn và tủi nhục vì ngôi làng Youshi thân yêu của mình đã theo giặc. Ông chửi bọn theo ông: “Chúng nó bay vào miệng chúng nó ăn miếng cơm hay sao mà đi Việt gian lớn lên, bán nước làm nhục dân như vậy”. Kể từ lúc đó, anh không dám đi đâu, suốt ngày cuộn mình trong nhà nghe ngóng tin tức. Khi bà chủ nhà đến thông báo không cho gia đình ở nữa, anh cảm thấy mình không thể sống được nữa, anh nảy ra ý định: “Về làng đi?” Nhưng ý kiến này lập tức bị ông lão phản đối. Đúng không, bởi vì: “Tôi rất yêu làng, nhưng tôi ghét làng theo Tây.” Khi ông Hai đang suy nghĩ về việc có nên trở về làng hay không, ông đã trải qua những cảm xúc đau đớn, thất vọng và nỗi đau ập đến với ông. Hãy cực đoan hóa nội tâm của nhân vật.
Chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo, giặc tràn vào làng, ông buộc phải rời làng. Rời làng anh mang theo tất cả nỗi nhớ. Vì vậy, trong khi di dời, anh ta đã bị tra tấn và dày vò. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông thực sự gắn bó với những vui buồn của làng quê. “Mua rau cắt rốn” đã trở thành truyền thống và tâm lý chung của mọi người nông dân lúc bấy giờ. Có lẽ tình yêu đất nước của họ bắt nguồn từ những điều bình dị, nhỏ bé: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng tầm nó lên: tình yêu đất nước. Đến đây, tôi chợt nhớ đến câu nói nổi tiếng bất hủ của nhà văn Ilya Ellenbua: “Yêu quê hương, yêu quê hương và yêu quê hương trở thành yêu nước”. Mấy ngày ở thôn thang, anh Hai suốt ngày đến trụ sở nghe ngóng tin tức thôn Youshi, nghe nói cả thôn Yue đều theo Tây.
Truyện ngắn của Kim Lan, một nhà văn trong làng, được viết trong những ngày đầu kháng chiến chống Nhật và được đăng trên báo Văn nghệ năm 1948. Câu chuyện về ông Hải, một nông dân phải bỏ làng đi tản cư. Từ đó ta cũng cảm nhận được tình cảm yêu nước của nhân dân ta trong thời kỳ chống Pháp.
Xem Thêm : Giáo án hoạt động trải nghiệm 6 chân trời sáng tạo
Những câu chuyện đồng quê khai thác những tình cảm thịnh hành trong thời kỳ Kháng chiến. Đây là tình yêu của quê hương. Mặc dù thành công của Jinlan là một loại cảm xúc cộng đồng, nhưng nó thể hiện cảm xúc tâm lý chung đó trong biểu hiện sinh động của một người, điều này trở thành một đặc điểm tâm lý sâu sắc của nhân vật ông Jinlan. Vì vậy, đó là một cảm giác chung, nhưng rõ ràng là một cảm giác cá nhân riêng, in dấu rõ ràng tính cách của các nhân vật.
Tác phẩm kể về một người ông có tình cảm sâu sắc với làng Youshi, nhưng ông phải xa gia đình vì chiến tranh. Tuy ở xa quê hương nhưng ông luôn nhớ quê hương và rất quan tâm đến tin tức cách mạng, tin tức quanh làng. Ông thứ hai là một người yêu quê hương.
Trong những ngày tản cư, cũng như bao nông dân khác, ông tự hào về làng mình và luôn khoe với mọi người cái làng chợ dầu kháng chiến này. Ông vẫn nhớ những ngày cùng đồng đội đào đường, đắp gò, bốc đá, tuy là những ngày gian khổ nhưng mỗi khi nghĩ lại, lòng ông lại rạo rực, phấn chấn hơn, thấy mình trẻ ra. và đi ra ngoài. Nỗi nhớ ấy thi thoảng trào dâng, bật ra những lời chân thành: nhớ làng ơi nhớ làng quá. Anh không chỉ ở trong suy nghĩ mà nỗi nhớ quê gắn liền với lòng yêu nước, ngày nào anh cũng vào phòng tin tức để nghe tin tức của người khác, nhưng chẳng có tin tức gì: một em bé bơi ra. Bên bờ hồ Hoàn Kiếm cắm cờ tổ quốc, một ông quan bị du kích bắt… Hạnh phúc của ông rất đỗi bình dị, giản đơn nhưng cũng thể hiện tấm lòng yêu nước chân thành của ông.
Nhưng ngày ấy, ông nghe tin dữ làng mình theo Tây mà lòng nhớ nhung, tự hào. Tin tức đột ngột khiến anh bị sốc và mất tinh thần. Cổ họng ông lão thắt lại, mặt ông tê dại, và ông không thể thở nếu không di chuyển. Câu hỏi có thật không? Hay là… Càng kinh ngạc hơn, trong lòng hắn nảy sinh nghi hoặc. Nhưng sau khi nghe được lời nói thẳng thắn của người phụ nữ, anh ta cũng không biết phải làm sao, chỉ nói một câu: Quay về thật ghê tởm… Nhưng trên thực tế, tất cả những gì anh ta nói chỉ là rời đi. Tâm trí anh đã bị ám ảnh bởi tin tức đó kể từ đó.
Nếu như ngày nào về nhà, anh sẽ đến bên lũ trẻ, nói với chúng bao điều thì hôm nay, anh nằm trên giường buồn bã, cô đơn, nước mắt giàn giụa. Từ lâu anh đã tự hào về quê hương mình, khoe làng với mọi người, nhưng bây giờ chỉ còn lại sự xấu hổ và oán hận ở nơi đó. Giận đến tột cùng, ông rít lên mắng: Bọn bay vào mồm ăn cơm hay sao mà đi làm thằng bán nước giả tạo ở Việt Nam, để bị nhục nhã thế này. Những ngày sau đó, anh xấu hổ đến mức không dám đi đâu, chỉ nghe tiếng sột soạt, tưởng có ai mắng mình, chỉ dám quanh quẩn trong nhà. Mỗi khi nhắc đến người Việt Nam trong đám đông, ông lại lui vào một góc nhà, im lặng và đáng thương.
Trong tình huống éo le ấy, anh còn bị đẩy vào một tình huống éo le khác, đó là bị bà chủ đuổi ra ngoài và nói: Tôi thấy làng Youshi rất linh thiêng, như cào xé, tra tấn trái tim anh. Nhưng cũng chính lúc này ông phải lựa chọn giữa yêu nước và yêu nước. Có lúc ông nghĩ bỏ làng ra đi cũng tốt, nhưng ông phản đối ngay, vì về làng tức là theo giặc. Vì vậy, anh đã có một sự lựa chọn rõ ràng: làng thực sự yêu nhau, nhưng làng theo hướng tây muốn trả thù. Qua đó có thể thấy rằng, tình quê lớn nồng nàn, thiết tha nhưng không mạnh hơn lòng yêu nước đang bao trùm và chi phối tình yêu quê lớn.
Trong tác phẩm có đoạn trò chuyện cảm động của ông với người con út, thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. Bế tắc trong lòng, anh tìm đến bác ruột để thú nhận, nói chuyện với đứa trẻ ngây thơ, thực ra anh đang nói với chính mình. Những lời tâm sự của anh thể hiện tình cảm sâu đậm với làng Youshi, dù ghét người Việt Nam nhưng anh vẫn ghi nhớ sâu sắc nên đã hỏi cô quê quán ở đâu, muốn khắc cốt ghi tâm. Trái tim người con yêu làng, để không quên cội nguồn. Đồng thời, trong cuộc trò chuyện ấy, ông cũng bày tỏ lòng trung thành với cách mạng qua lời khẳng định: Hồ Chí Minh muôn năm, nghĩ đến làng nước mắt ông cứ tuôn rơi. Nỗi đau ấy là nỗi đau của những con người đặt danh dự của làng và danh dự của mình lên nhau. Qua đó ta thấy được tình cảm của hai người đối với đất nước, Tổ quốc rất sâu nặng, bền chặt, lâu dài và thiêng liêng.
Niềm vui lớn nhất trong đời ông có lẽ là được nghe tin sửa sai, “khuôn mặt buồn bã ngày nào bỗng tươi tỉnh hẳn lên, đôi mắt đỏ hoe chớp chớp”. Ngay khi về đến nhà, anh ấy đã gọi bọn trẻ để chia quà. Không những thế, ông còn tiếp tục tung tin làng mình bị thiêu rụi cho mọi người xem. Tâm lý khoe khoang ấy hoàn toàn chính đáng, bởi lòng yêu nước cao cả khiến ông sẵn sàng hy sinh tài sản của mình. Đồng thời, đó cũng là bằng chứng cho thấy làng ông đã hết lòng theo cuộc đấu tranh. Ở ông, tình yêu đất nước hòa quyện với lòng yêu nước. Trong mọi trường hợp, anh đặt lòng yêu nước lên trên tình yêu quê hương. Vì vậy, nhận định hình ảnh ông Hai làng đã trở thành hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam yêu quê, yêu quê trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Tác phẩm xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp nhân vật nói lên tình yêu làng quê. Ngôn ngữ trần thuật giàu hình ảnh giản dị như ngôn ngữ đời thường. Việc sử dụng linh hoạt các câu văn giàu cảm xúc đã khắc họa sinh động cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của người chồng.
Sau khi đọc tác phẩm Nông thôn của nhà văn Kim Lân, tác giả đã để lại ấn tượng rất tốt đẹp về hình ảnh ông Hai. Người nông dân làm hay khoe đều gắn bó bền chặt với làng. Tình làng gắn liền với tinh thần kháng chiến, yêu nước, một lòng theo già. Đồng thời, bạn cũng có thể cảm nhận được sự kết hợp hoàn hảo trong cách viết về nông dân và nông thôn của nhà văn Jin Wuni.
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Phân tích và cảm nhận tác phẩm Làng – Kim Lân – Elib.vn. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn