Cùng xem Nhà thơ Trần Tế Xương – Một nhân cách văn hóa – Báo Nam Định trên youtube.
Nhà thơ Trần Tế Xương (tức Từ Bôn) tên thật là Trần Duy Uyên tự tử, sinh con, nuôi mộng công danh. , phố Houhangzong, nay là phố Mingkai, quận Weichuan. Sinh ra trong một gia đình Nho giáo nghèo, cha của anh, Chen Weihuan, từng là người thừa kế của bác sĩ học ở thành phố Nam Định. Vợ ông là bà Phạm Thị Vân cũng là một người con gái khá giả, gốc miền Đông (Hải Dương), được coi là tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa là đảm đang, đảm đang. , yêu chồng, thương con, nhẫn nhịn,“Duyên hai nợ một phận / một năm mưa gió dám làm quan”. Bà là người “thúc đẩy” chồng mình đáp ứng ý muốn của người đàn ông. Trong học hành thi cử, làm thơ, giao du: “Nói nợ vậy/ Mà vẫn giàu cả đời”, “Nhìn bạn tri kỷ bậc nhất/ Khách hạng ấy”…
Khi nhà thơ trần hy sinh xương sống cũng là lúc cả nước đang bừng bừng căm phẫn chính nghĩa, phong trào yêu nước làm vua dần thoái trào, năm 1873 quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, sau đó tấn công Nam Định, năm 1884, nhà Nguyễn chính thức ký hiệp ước dâng nước ta cho quân Pháp xâm lược. Vừa là một thư sinh, vừa là một nhà thơ có năng khiếu, giống như nhiều nho sĩ trẻ tuổi, nhà thơ cũng có ước vọng trở thành một học giả và sống một cuộc sống tử tế. Năm 1886, ông vào thơ khi mới 16 tuổi, đỗ 8 khoa thi (1886, 1888, 1891, 1894, 1897, 1900, 1903, 1906). Có lẽ chính phong cách chuyên nghiệp phóng khoáng tự do, cộng với phương thức thi cử “chọn nhân tài” của chế độ thực dân phong kiến đương thời, đã khiến ông phải vất vả cả đời. Mãi cho đến kỳ thi thứ tư vào năm Mã thứ sáu năm 1894, ông mới được nhận làm Thượng sĩ Thiên Thọ khi mới 24 tuổi, điểm của ông xếp cuối bảng. Những người mong chăm chỉ đỗ cử nhân sẽ thoát nạn mù chữ và“muôn đời thua anh em phương bắc”,kỳ thi cuối cùng, sau năm 1906 của Thái Nguyên 18, ông cũng đã dùng cao Nhân trần xương.Đã đổi tên là Cao xương bồ nhưng vẫn không hết. Anh căm hận nhận ra rằng “cánh cổng khổng lồ” của cuộc gặp gỡ giông bão này đơn giản là không thể chứa một người như anh. Ông đành chấp nhận số phận phải sống trong môi trường chợ búa chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ thực dân nửa phong kiến, nơi nhiều giá trị đạo đức, nhân văn bị xáo trộn hoặc đảo lộn.
Tuy nhiên, ông không sống một cuộc đời hèn mọn, nhu nhược và tầm thường. Ông chọn cho mình một cách “nhập thế” rất “Nho-quý tử” với dòng máu Beihashi: văn học). Những câu thơ sang chảnh, chỉn chu và cẩu thả thực ra chỉ là một dấu hiệu tượng trưng bên ngoài, nhưng bên trong ẩn chứa lời thú nhận trìu mến của một nhà văn uyên bác trong một thời kỳ nhạy cảm: Trời không bao giờ sáng. Mưa tạnh/ từng đêm buồn”, “Ếch kêu bên tai/ Nghe ai gọi đò”, “Ai tỏ tình cho tôi/ Tùy Tùy Đặng tâm sự”, “Ai cũng mê ngủ trong vô vọng/Dậy đi một mình” , “Tuổi trẻ, nước non, tình yêu/Vì một số người làm tôi chết lặng”…Ông Ứng xử văn hóa thực sự là ứng xử của một nhân cách văn hóa được gọi là xương máu. >
Xem Thêm : Đề thi Toán lớp 2 Học kì 2 năm 2023 có đáp án (10 đề) – VietJack.com
Anh ấy luôn xấu hổ về bản thân mình–một sự sỉ nhục đáng xấu hổ đối với lòng tự trọng của anh ấy. Xưa nay có nhiều thơ về học hành thi cử, nhưng viết hay, rành mạch và thật “chuyên nghiệp” phải là thơ của nhà thơ Du Bền: Nấu . “Cơm chưa nấu/ Em không ăn ớt nên cay lắm”, “Đau lòng quá/ Nóng hơn lửa đốt/ Chuồng cọp, đáng thương/ Hụt hẫng, đáng thương”… Nhiều tâm sự các nhà thơ đến giờ Đọc lại vẫn thấy cay sống mũi, tôi rất thích câu chúc thi đỗ: “Mở mày mở mặt quyết cho vua biết/ Đua danh kẻo mẹ cha già”, “Anh cầm huy chương vàng, Để mặt vợ vang vọng”…
Đề tài sáng tác của bài thơ không trừu tượng mà dựa trên những con người thật, những sự việc có thật ở các đô thị miền Nam lúc bấy giờ. Khi chế độ thực dân phong kiến bắt đầu “mọc sừng” len lỏi vào mọi ngóc ngách của đời sống, nhà thơ luôn cảm nhận được nỗi tủi nhục của thân phận nô lệ. Đồng tiền chi phối mọi quan hệ xã hội và phá bỏ mọi thuần phong mỹ tục tốt đẹp. Những nhân tài phương Bắc “kính một nhà, một chữ” thực chất là những kẻ “cả dân lẫn quân” vô liêm sỉ mua danh, bịp bợm xu nịnh, giúp quan Tây kiếm thêm váng sữa; công chức thực dân sống “ô mai ô mai”, cuộc sống buồn tẻ cầm ô ban đêm, bùa ngải, gái điếm, những gã làm ăn lanh lợi, hình ảnh những ông Tây, bà Tây… trong ngòi bút của nhà thơ, chúng hiện lên với tất cả những biểu hiện hợm hĩnh, lố bịch, lố bịch. Thơ ông luôn làm người ta ngạc nhiên, tiếng cười trong thơ ông sắc sảo, hình dáng bên ngoài của vật xé làm cho chúng lộ rõ bản chất. Có thể nói, nhà thơ đã mang đến cho văn học một thi pháp miêu tả đầy ấn tượng về cuộc sống phức tạp, vừa đa dạng vừa cụ thể, chi tiết. Thông qua đó, ông đã đúc kết bản chất của một xã hội phong kiến suy đồi bị thực dân thống trị, chà đạp lên những phạm trù đạo đức thiêng liêng của thời đại đã qua. Nhà thơ cảm nhận được sự băng hoại đạo đức đang len lỏi vào từng cung đình: “Lại cha khinh con/ Đàn bà hận chồng chửi chồng/ Con cú như cứt sắt/ Lòng tham thở phì phò”… Nếu Đặt trong dòng văn học Việt Nam, hiếm có nhà thơ trào phúng nào có giọng điệu đanh thép, sâu lắng và quyết liệt như Du Bền. Có quan điểm cho rằng: nhà thơ tứ tuyệt không có gươm giáo hay vũ khí lợi hại như các bậc tiền bối… nhưng ông có vũ khí riêng để đối phó với kẻ thù, thơ ông sắc như gươm, ông có sức mạnh, đâm trước chém sau kẻ thù, kẻ cướp và quân phản bội.
Trong bài thơ hiến xương còn có một bức chân dung tự họa quan trọng. Hình tượng nhân vật trữ tình Du Bền trong bài thơ không chỉ là hình ảnh bản sắc riêng của nhà thơ mà còn là một tấm gương văn chương tài tử Nho sĩ. Bên cạnh những bài thơ chế giễu những kẻ ăn chơi, phát huy ưu điểm, tránh nhược điểm, còn có những bài thơ nói về tình yêu thương vợ con, gia đình, những người dân lao động nghèo khổ, đồng thời là những tấm lòng thành kính trước vận mệnh của đất nước. Nhưng không có gì có thể được thực hiện. Nhà thơ cảm thấy hoàn toàn đơn độc trong xã hội xô bồ, hỗn độn chạy theo giải trí, tiền tài, danh vọng: “Thức dậy sao sáng/ Sao đêm sao im lìm”, “”Nước non xanh trông vắng vẻ/Người đi quanh quẩn Đi tìm bơ vơ” , “Hỏi người chỉ thấy cây xanh/ chờ nước trong xám”, “giữa đường quạnh hiu/ gặp ai đợi chờ”… ông viết trực tiếp hoặc gián tiếp về người vợ – Các bài thơ của bà Tú, vd: Thương vợ đau con mắt, hè mặc áo bông, than nghèo, bằng lòng, ở nhà…, đều có hình thức trào phúng, nhưng diễn đạt giản dị, tình yêu chân thành, sâu sắc và nhân văn.
Thơ của ông khá nhiều, phần lớn là những bài thơ nổi tiếng viết bằng thất ngôn và theo thể tứ tuyệt, lục bát, thất ngôn bát cú. Ngoài ra, ông còn viết một số tài liệu văn học phong phú, đặc biệt với tư cách là một dịch giả tài năng và uyên bác, người đã góp phần làm sáng tỏ vẻ đẹp của nhiều bài thơ Đường Trung Quốc. Ông qua đời đột ngột, không được đoàn tụ, không có di cảo, thơ ông còn bị thất lạc, hoặc có sự hỗn loạn như các nhà phê bình nhận định.
Về nghệ thuật, sáng tác thơ thất ngôn đã góp phần phát triển thơ ca dân tộc, từ bỏ những hình thức ước lệ trừu tượng và những công thức mang tính quy phạm của văn học nghệ thuật trung đại. Nhà thơ đã nâng ngôn ngữ đời thường lên thành ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức biểu cảm, giàu tính ngụ ngôn và đẹp. Thể thơ Đường luật được ông sáng tạo một cách tự do với ngôn từ bình dân nhưng ý nghĩa sâu xa và vẫn tuân thủ chặt chẽ các quy tắc thể loại. Nghiên cứu những thành tựu của thơ độc thoại mấy chục năm gần đây, tuy còn một số chi tiết cần khảo sát thêm như số lượng bài thơ và có bài thơ nào không rõ nguồn gốc hay không, nhưng hầu như những lời như “Ta Đã Nói” đều khẳng định: bài thơ trên trần nhà là những thành công trào phúng và trữ tình. Ca từ là gốc rễ của thơ ca. Trào phúng không bao giờ buồn tẻ vì nó được viết từ những cảm xúc thực. Trào phúng không chỉ hài hước mà luôn có chiều sâu cảm nhận lớn. Ông thừa hưởng sự châm biếm, giễu cợt , truyện cười, truyện trạng thái, thơ Hồ Xuân Hương từ văn học dân gian…và đưa nó lên một chiều sâu trào phúng mới.
Xem Thêm : Ý nghĩa và cách chăm sóc cây quất trước và sau Tết – Bách hóa XANH
Nhà thơ Trần Tế Bang đột ngột qua đời vào ngày rằm tháng mười hai âm lịch (28/01/1907), khi ông vừa đỗ kỳ thi thứ tám. Nhà thơ mới 37 tuổi, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã chín muồi. Hắn hóa thân vào linh địa Thánh địa, hóa thân thành người, sống ở đây, dốc hết tâm hồn, tài năng, sức lực. Chắc nhà thơ này “mỉm cười trong không khí”, khi người thành phố sẽ không quên anh, họ cũng sẽ thấy giá trị tinh thần trong thơ anh, và trân trọng quê hương – hữu tình – thơ mộng và sản vật trong hương thảo: “Ăn chuối đọc thơ xương”. Ngôi mộ của ông được đặt trang trọng bên hồ, con đường ven hồ tuyệt đẹp, ngôi trường tiểu học mang tên ông… Các học giả, nhà văn và nhà thơ lớn đều bày tỏ lòng kính trọng đối với ông:“Tuben xứng đáng là một trong những nhà thơ trào phúng lớn của thế giới “(Giáo sư albert smit-he); “Trên bầu trời thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay, nếu chọn năm ngôi sao sáng nhất, thì Du Pont là một trong số đó” (jean chuyển phát nhanh – Pháp); anh hàng thịt là “thánh thơ” (Nguyễn Công Hoan); “ngồi nghe thám tử trong khói thuốc/ đỗ cử nhân văn chương” (Xuân Diệu);“một nhà thơ, một nhà thơ có nhiều thành tựu trong quá trình lâu dài tạo lập tiếng nói văn học dân tộc Việt Nam” (Nuân Tuấn); “Vẫn còn nhiều học trò. quan trọng nhất là phải học lòng yêu nước, thương dân, căm thù những kẻ hại nước” (chế lan viên); “Tôi chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ Tu Peng nên thờ ông làm thầy, lấy biệt hiệu là anh ấy Tutu, mặc dù tôi không vượt qua khóa học đại học, nhưng anh ấy không béo.”(Fat Pocket) ).
“Mười phân vẹn mười”(!). Nhà thơ Xương trước hết là một con người thực, sống trong cảnh nghèo khó ngoài đời, vật lộn với thi cử và chết sớm khi chưa làm được gì. Vì vậy, đòi hỏi nhà thơ phải hoàn thiện, có có cũng không có, không thấy được đóng góp to lớn của nhà thơ trong thơ ca, văn hóa. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Xuân Diệu xếp nhà thơ tự tứ thứ năm, sau bốn nhà thơ lớn của đất nước: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Không phải ngẫu nhiên Bảo tàng Văn học Việt Nam đã chọn nhà thơ Du Pont trong số 20 nhà văn lớn để đúc tượng đồng nguyên khối đặt trong Vườn tượng Nhà thơ của Bảo tàng Văn học Việt Nam tại Hà Nội. Chúng ta tự hào về mảnh đất Nam Định đã hình thành nên truyền thống văn hiến Nam Định với hồn cốt Nam Định, và chúng ta càng tự hào hơn khi có một nhà thơ đã hy sinh cho nhân cách văn hiến được kết tinh từ truyền thống. Văn hiến Nam Định, một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam. Tên nhà thơ từ lâu đã trở thành một thành ngữ tiêu biểu ở Nam Định: ông tử vi xuyên, ông tử thành nam.
Cảm ơn tinh thần anh dũng của nhà thơ:
“Trang phục của người đàn ông chân chính, ngọn đèn xanh của hối hả, bình minh của văn nghệ. Trường thi nghĩ ngợi, dám sống lâu dài. Tâm hồn sắc sảo, vững vàng, chân thành, nghệ thuật chan chứa yêu thương Tài cao mà gầy Bài thơ không gầy, kiêu hãnh diễn đến tận xương tủy.”
Nguyễn Công Thành(Chủ tịch Hội VHNT tỉnh)
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Nhà thơ Trần Tế Xương – Một nhân cách văn hóa – Báo Nam Định. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn