Cùng xem Thiện – SimonHoaDalat trên youtube.
lòng tốt
Về “thiện bản thiện” (con người bản chất là thiện) hay “tiểu nhân bản tính ác /i>” (con người sinh ra bản chất là ác), ai đó hỏi tôi “tốt” là gì.
Đây là một chủ đề phong phú đến mức người ta khẳng định rằng “không thể định nghĩa được vì nó là khái niệm cơ bản nhất, cuối cùng và không thể chia cắt” [1]. Vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi cố gắng tìm hiểu nghĩa thông thường của từ “tốt” trong tiếng Việt, cũng như một số khái niệm liên quan đến chủ đề này trong triết học và tôn giáo dân gian[2].
1. Ý nghĩa của từ “tốt”
1.1. Nghĩa gốc hay. thiên có 15 chữ Hán: 善(譱), 善, 鱓, lươn, Zen, , Shan, 饭, 饭, 墠, 阵, 书(传), Song, 蟮, 蟺, trong trường hợp này là 善 (chữ Hán phồn thể). : 譱). tian thuộc từ loại, là từ kết hợp giữa cừu và cừu và từ. Dương (cừu) tượng trưng cho tường (xiang) là điềm lành (tốt lành); khẩu (speech) là lời nói. Từ này được đánh vần như sau:
Trong văn bia bằng xương tiên tri, chữ tiên được viết là bộ (dương 羊, nghĩa là cát tường: điềm lành) và chữ (mục, tức là mắt, nghĩa là khuôn mặt ôn hòa, dịu dàng và tinh anh) ), như câu nói: “từ mi: mặt hiền”. Trong kim văn, tian được viết là (dương dương, tức là Qiangxiang: có nghĩa là hòa bình và nhân ái); cũng được viết: gồm có dương (羊) và hai chữ (言), có nghĩa là lời tử tế. Nghĩa gốc của từ thiện là “tinh thần ôn hòa, ngôn ngữ thân thiện: diện mạo trang nghiêm, lời nói hòa nhã”. Trong kinh điển, kế thừa hình thức của Jin Fan, kịch bản được viết là hoặc. Trong thư viết tắt chữ (言) là tiên lược bỏ một chữ (言) mà thành.
1.2. Thiện: (đt.) (1) Thiện nghiệp: mỗi ngày tu thiện (mỗi ngày làm một việc thiện). (2) người tốt, người làm thuốc: người tốt không có khả năng (khen người tốt, nhưng cũng đồng cảm với người không có khả năng). (3) Họ tốt. (et.) (4) Kính: Thiện là vua, thiện là giả (Người biết ngày là vua, và người biết thời là vua) (phục, nắm quyền trong tay). (5) Kết bạn: communicate (kết bạn). (6) Sửa điều thiện: Giáo dục điều thiện (quan tâm làm điều tốt) (7) Yêu thích: vua thích chi tốt, hành vi xấu? (nếu vua thích thì , cái gì Thích mà không làm?) (Mạnh Tử · Lương Vương). (8) thân thiện, thân thiện: hàng xóm thân thiện (gần gũi với hàng xóm, tử tế với hàng xóm). (tiếp) (9) người quen: gương mặt thân quen (với khuôn mặt quen thuộc). (10) thiện: người tốt (người tốt). (11) Chấp nhận được: good book (kế hoạch tốt). (pht.) (12) Khéo léo: thư hay (văn khéo léo). (13) Dễ quên: Tốt (dễ quên). (14) Thân: vui lòng (tử tế). (Thán từ) (14) Ca ngợi: lòng tốt!
Theo nghĩa triết học, cái thiện là “điều tốt đẹp thuộc lĩnh vực đạo đức, là lý tưởng đáp ứng ý chí, lý trí và cái đẹp, tình cảm của con người”[3].
2. Khái niệm về cái tốt
2.1. Trong Khổng giáo: Mạnh Tử nói: “Mọi người đều có lòng từ bi…Ta nói điều này bởi vì nó được ghi chép rõ ràng. Nếu đột nhiên nhìn thấy một đứa trẻ rơi xuống giếng, mọi người sẽ có một trái tim bồn chồn” [4]. Nó chứng tỏ một trong bốn yếu tố thiện (sitong, hay đại khái có thể gọi là phôi thiện), thiếu nó thì không phải là người, bao gồm: lòng nhân (xót), lòng nhục (nhục, ghét), lòng thương (tôn trọng). ) ), bất chấp (biết đúng sai). Ông nói: “Thiện là đạo của nhân, nhục là đạo của nghĩa, nhân là đạo của lễ, vi là đạo của trí”. Vì vậy, con người cần phát huy tứ điều kiện bằng cách tu tâm (sống, dưỡng tánh), giảm dục (phát dục), hành thiện.
Người ta thường quan niệm bản chất là tất cả những tính chất tốt xấu tự nhiên trong tâm thức của một sự vật, tức là toàn bộ đời sống của sự vật đó. Nho gia không hiểu, bởi vì nó là gốc của tinh thần, tức là bản chất của con người, chính, lễ, trí, và nó cũng là trí và đức được đề cập ở đầu sách đại học. Vì vậy, nếu cho rằng bản chất của mình là tốt, nếu thành công của mình là không tốt, tức là không biết giữ cái tâm ban đầu của mình, và nguồn gốc của sự thất bại là không tốt. Sở dĩ kẻ mạnh nói về thiện là vì ông ta tin rằng có thiện, bản chất con người là một phần của nó, nên nó phải có thiện.
Mạnh Tử thường dùng “hiếu, trung, trung” để biểu đạt nội dung cụ thể của tính thiện. Hiếu thảo là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa con cái với cha mẹ; biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa tôi và bạn; lòng trung thành là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa tôi và đất nước hoặc chủ nhân; lòng tin là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa tôi và bạn bè của tôi. Lòng tốt là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đúng đắn giữa mình và người.
2.2.Trong Phật giáo: Thiện (Pali: kusala): thiện, thiện, thiện; có đạo đức, có lợi cho mình và người; là cõi diệt ác. Trái ngược với thiện là ác, và bất thiện (akusala) là ác. Quả của lòng từ là thân tâm an lạc. Hạnh phúc (puñña): Là trạng thái hạnh phúc, vui vẻ và thanh lọc tâm khỏi phiền não. Ngược lại với hạnh phúc là phó (pāpa), là một trạng thái trong đó tâm trí bị ô nhiễm bởi những phiền não. Hoa trái của hạnh phúc cũng là thân tâm an lạc. Do đó, hạnh phúc và lòng tốt là đồng nghĩa. Phúc thường thấy trong kinh điển, theo nghĩa hẹp; phúc thường thấy trong pháp thuật, với nghĩa rộng.
Trong tam giới (Tam giới), đặc biệt là con người, nói chung, tất cả chúng sinh đều có thân tâm an lạc, đó là quả lành. Tất cả các việc thiện đều do thân, khẩu, ý tạo ra, gọi chung là thập thiện (10 việc thiện): ở thân có ba điều: (1) không sát sinh, (2) không trộm cắp, và (3) không bị dâm ô. Có bốn loại lời nói: (4) không nói dối, (5) không chửi thề, (6) không nói lời thô tục, và (7) không nói dối. Tâm có ba loại: (8) không tham, (9) không sân, (10) không si.
Tất cả các phước lành của người và trời (tức là tất cả chúng sinh trên thế giới tốt hơn con người) đều đạt được bằng cách thực hành mười điều thiện này. Muốn được sanh về cõi trời thì phải làm mười việc lành. Trên cõi trời có ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu muốn tái sanh vào hai cõi sắc giới và vô sắc giới thì phải tu tập tứ định và bát định[6]. Cũng cần lấy mười thiện nghiệp này làm căn bản, tu Thiền chỉ cần thêm một bậc nữa. Do đó, giáo lý Đại thừa cũng được bao gồm trong mười điều thiện, và hầu hết sự nghiệp thế tục của các vị thánh cũng được bao gồm trong mười điều thiện. Đây là vai trò thực sự của mười việc thiện. [7]
2.3. Trong Triết học Hy Lạp: Tốt[8] là mục tiêu thành công trong cuộc sống của mọi người, là nguồn gốc của hạnh phúc và là mục tiêu không ngừng theo đuổi của tâm hồn. Chỉ có hiền nhân là tốt nhất, chỉ khi anh ta sử dụng nó đúng cách.
Các nhà tư tưởng đầu tiên tập trung vào bản chất và nguồn gốc của thế giới nên việc nghĩ về cái tốt diễn ra tương đối muộn, nhưng chủ đề này được bàn luận nhiều do các nhà triết học không thống nhất về bản chất của nó. Những người theo trường phái Pythagore đã đặt cái tốt lên hàng đầu trong hệ thống phân cấp của các sinh vật, đánh đồng nó với Chúa, tinh thần và đơn nguyên tạo ra các sinh vật. Ông coi cái thiện không chỉ là giá trị đạo đức, mà còn là cái đẹp, cái chân lý, cái hạnh phúc, chính xác hơn, nó vượt lên trên những giá trị thứ yếu này và mang lại cho chúng giá trị: nó tuyệt đối và triệt để.
Theo quan điểm của Aristotle, “lòng tốt” được đánh đồng với động cơ đầu tiên[9], những sinh vật cần thiết, nguyên tắc, tư duy tự chủ và chức năng tự duy trì lâu dài của Chúa[10]. Đối với con người, mục tiêu chính của ý chí hợp lý là điều thiện. Ở một mức độ nào đó, mọi nghệ thuật và mọi khoa học đều hướng tới cái thiện[11]; và “cái thiện tối cao” (Ariston) là mục đích cuối cùng của cá nhân và quốc gia[12]. Do đó, trong nhiều khía cạnh, “cái thiện bao gồm nhiều phạm trù như: cái thiện cao nhất được gọi là thần và tinh thần; cái thiện cao nhất được gọi là thần và tinh thần; như bản thể, nó là đức hạnh; như thước đo , đó là thước đo đúng đắn…[13] Đó cũng là mục đích duy nhất và hoàn hảo nhất để tạo ra hạnh phúc, khiến chúng ta tìm kiếm nó cho chính mình chứ không phải cho bất kỳ ai khác[14]. Bằng cách đảo ngược các thuật ngữ, Aristotle Ông kết luận rằng điều tốt đẹp nhất là hạnh phúc (eudaïmonia); ông tuyên bố rõ ràng: “Điều tốt đẹp trong chính con người là hoạt động của linh hồn theo đức hạnh“[15]. Xét cho cùng, loại hạnh phúc này là “theo phần hoàn hảo nhất trong cuộc sống của chính mình”[16], đây là nguyên tắc thần thánh của lý trí chiêm nghiệm (épistêmonikon) trong khoa học chính trị[17]], Aristotle gọi (cộng đồng) là tối cao hay kuriotaton, kurios (thường được dịch là kyrios): quyền làm chủ, quyền thống trị (được dịch là Chúa trong Sách Lễ Rôma).
Xem Thêm : Chúc thượng lộ bình an bằng tiếng anh là gì?
2.4. Chủ nghĩa kinh viện: Chủ nghĩa kinh viện chia điều thiện thành ba loại: điều tốt hữu ích, điều tốt hưởng lạc và điều tốt đạo đức.
– điều tốt có ích được tìm thấy ở Socrates, người ủng hộ điều tốt là điều hữu ích. Một số người xác định với lợi ích cá nhân. Gần đây hơn, lợi ích đã được đánh đồng với lợi ích chung. Hàng hóa hữu ích là những đồ vật hoặc hành động giúp chúng ta đạt được một mục tiêu cụ thể, dù là mục tiêu trung gian hay mục tiêu cuối cùng.
– điều tốt theo chủ nghĩa khoái lạc là cảm giác hạnh phúc có được sau khi đạt được một mục tiêu tốt hoặc làm tốt điều gì đó. Một số coi đó là người sành ăn.
– Sự tốt đẹp về mặt đạo đức là điều tốt đẹp, đáng mơ ước, được yêu thích và tìm kiếm, chứ không phải là một phương tiện hay một cảm giác. Lòng tốt đạo đức được đánh đồng với lòng tốt vị tha. Chúng tôi tìm kiếm nó, và chúng tôi làm như vậy bởi vì nó có giá trị ngay cả khi phải trả giá. Đây là chân, thiện, mỹ của đạo đức.
Khi con người theo đuổi cái thiện thì chỉ khi đạt đến cái thiện tuyệt đối thì họ mới hài lòng. Lòng tốt thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau:
– Hàng hóa vật chất: Ví dụ: Thực phẩm, Quần áo, Tiền bạc, Xe hơi, Nhà cửa, Tiền bạc, Tài sản, Danh vọng, Quyền lực…những thứ này là những thứ hữu ích, phương tiện có giá trị, chúng chỉ phù du. .
– Sức khỏe tốt: Ví dụ: khỏe mạnh, sắc đẹp, trường thọ, hạnh phúc… Những điều tốt đẹp này được coi là mục tiêu trung gian, không phải là mục tiêu cuối cùng. Rốt cuộc, họ không thể hoàn hảo.
– Của cải tinh thần: Ví dụ: khả năng siêu phàm của tâm hồn, nhận thức về sự thật, tình yêu cái đẹp, khoa học, nghệ thuật… Những của cải này cũng không phải là tốt tuyệt đối, bởi vì chúng không hoàn hảo, Dễ bị tổn thương và vô độ, bởi vì càng tiến bộ, càng nhiều vấn đề.
– Social Good: Có nhiều giả thuyết cho rằng Điều tốt tuyệt đối là khi hoàn thiện một xã hội hoàn hảo. Theo Auguste Comte, con người là một thực thể xã hội. Cá nhân chỉ tồn tại vì xã hội, phải hoàn thành sứ mệnh của mình, góp phần hoàn thiện xã hội thì mới có được hạnh phúc đích thực. Tuy nhiên, một người không phải là một con số, một người vô danh, mà là một con người. Xã hội vì con người chứ không phải con người vì xã hội.
– Thiện Thiện: Đó là các đức tính: bác ái, vị tha, hòa nhã, độ lượng… Đó không phải là lòng tốt tuyệt đối, bởi vì các đức tính có được. Giữ gìn đức hạnh gắn liền với nhiều hy sinh, bền bỉ và gian khổ.
– Tốt lành tuyệt đối: Thiên Chúa, Đấng có thể thỏa mãn những khát khao vô biên của con người: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên thần trí và linh hồn con sầu muộn, cho đến khi con được yên nghỉ trong Chúa” ( Augustine).
2.5. Khái niệm Công giáo
Có thể tóm tắt những nét chính trong luận thuyết thần học về sự thiện của Thánh Tôma[18] như sau:
1.Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn mạch sự thiện vô biên: Ngài dựng nên muôn loài vì muốn thông ban sự thiện cho các tạo vật, nhất là loài người. Nơi Thiên Chúa, lòng tốt hay tình yêu không phải là một điều trừu tượng, mà là bản chất của Người.
2. Con người luôn khao khát được biết sự thật và mong đạt được điều tốt đẹp cao cả nhất, đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng con người không tìm thấy hạnh phúc nào ngoài Thiên Chúa: bao lâu chưa đạt tới Thiên Chúa, lòng con người luôn khắc khoải.
3. Sự chống đối Thiên Chúa không để con người yên: chính Thiên Chúa lôi kéo họ trở lại với Người bằng ân sủng, bằng ơn Chúa Thánh Thần, bằng gương sáng của chính Đức Giêsu Kitô, hình ảnh của Thiên Chúa.
4.Con đường nên trọn lành, chân thiện mỹ (còn gọi là con đường nên thánh, con đường trọn lành, con đường trở về với Thiên Chúa là cội nguồn và cùng đích của mình) nằm ở việc bắt chước nhau. Đấng Christ. Nên thánh không có nghĩa là trốn tránh thực tại, nhưng là dấn thân xây dựng xã hội. Thánh nhân không phải là kẻ ngồi trên mây gió, nhưng là kẻ tìm cách nhận ra tiếng Chúa gọi giữa những bộn bề của lịch sử. Con đường nên thánh bao hàm nhiều việc lành (khổ hạnh, các nhân đức), nhưng trên hết là dục vọng và tình yêu. Con người thăng tiến về nhân đức không phải nhờ tích nhiều việc thiện, mà nhờ gia tăng tình yêu.
3. Kết luận
Các nhà triết học Hy Lạp tin rằng cái thiện là động cơ chính và cần thiết bên ngoài con người. Các nhà triết học Trung Quốc coi lòng tốt của con người là một phần thiện chí của Chúa. Phật giáo nhấn mạnh việc tìm kiếm kết quả tốt thông qua các hành động tốt. Công giáo cho thấy rõ ràng rằng tất yếu tồn tại, tốt lành là Thiên Chúa, và tốt lành là bản chất của Thiên Chúa.
Sự thánh thiện hệ tại ở việc sống như Chúa Kitô, diễn tả những việc làm, tư tưởng và hành động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói: “Đời thánh thiện cốt yếu là đời sống thánh thiện, không phải là kết quả và hoạt động của riêng chúng ta nỗ lực, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng Thánh (6:3) làm cho chúng ta nên thánh, và chính hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng kêu gọi chúng ta từ bên trong. tôi>”. [19]
–
Xem Thêm : Truyện Thạch Sanh (Có file nghe MP3) – Kho tàng truyện cổ tích Việt
[1] George Edward Moore (1873-1958) là người đề xuất chủ nghĩa hiện thực đạo đức và phát triển chủ nghĩa vị lợi lý tưởng như một triết lý độc lập với chủ nghĩa trực giác. Đạo đức, Oxford University Press, London, 1912.
[2] Khuôn khổ bài viết cũng như khả năng không cho phép chúng tôi kể đến đóng góp của các nhà tư tưởng xoay quanh chủ đề này như archytas, euclid of megara, socrates, diogenes, platons, epicure, plotin, proclus , e. Kant, Ed. George. Moore Lake Marx, vâng lời đến chết, cáo chết, Lão Tử, Trang Tử…
[3] Trần Văn Minh, Từ điển triết học và danh từ, Sài Gòn, 1966.
[4] Nghĩa đen: “Ai cũng có tâm không chịu được người khác…cho nên, tâm: con người, độc ác, nhẫn tâm, nhẫn tâm… nguyên nhân khiến con người độc ác, nhẫn tâm tàn nhẫn , Lòng giả dối: kim, nam, nữ, con tương hợp.(Mạnh Tử, Công Đồng Tố, Thương Lưu).
[5] Nghĩa đen: “Ghét cho giấu, thẹn cho ghét cho đành.” (Sđd.).
[6] Tứ ổn định và tám ổn định là: ổn định thứ nhất, ổn định thứ hai, ổn định thứ ba và ổn định thứ tư, là bốn loại ổn định của bầu trời màu sắc. Có định nên tứ thiền cũng là bốn định, cộng với bốn định của vô sắc giới: Không trụ định, thức vô biên xứ, vô sở định, vô niệm định. Nhất định là tám định”. Bốn định cuối cùng (cõi vô sắc giới) có thể được Đức Phật lượm lặt từ Ấn định trước và sau. Tứ thiền gộp lại thành Bát định (xem kinh Đạo Uyển, Trường Nguyên biên dịch trên http://rongmotamhon.net).
[7] Tham khảo Kinh Miaotianyidao do Hiệp hội Phật giáo Chính thống Thái Lan giảng bằng tiếng Trung Quốc và Shaman Shaman Trung Quốc, dịch từ http://www.phatviet.com.
[8] Trong tiếng Hy Lạp, agathon (to): tốt, tốt (tiếng Latinh: bonum; anh: good; tiếng Pháp: le bien): tính từ agathos: tốt, tốt. Danh từ so sánh bậc nhất, to ariston (τò ìριοτον): điều tối thượng (tiếng Latinh: summum bonum).
[9] Siêu hình học, k, 1.
[10] Sđd. Một, 7.
[11] l’Éthique À nicomaque, i, i, 1.
[12] Sđd. Một, hai, 1-7.
[13] Sđd. Một, sáu, ba.
[14] Sđd. Một, bảy, 3-5.
[15] Sđd. Một, bảy, 8-15; tám, 8.
[16] Sđd. x, vii, 8.
[17] les politiques, i, i, 1.
[18] Summa Theology i-ii.
[19] Bài giáo lý về các thánh của Đức Bênêđictô XVI và giải thích chung về ý nghĩa của việc nên thánh trước buổi tiếp kiến chung gồm 25.000 khách hành hương vào ngày 13 tháng 4 năm 2011.
Ừm. Nhân sư hình trụ
(emty.org cập nhật: 17/7/2012 – 22:12:56)
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Thiện – SimonHoaDalat. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn