Cùng xem Đề văn 8: Viết cảm nghĩ của em về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên trên youtube.
Có thể bạn quan tâm
- Những bài văn mẫu Tả cây bàng lớp 5 (Chọn lọc) – Tailieu.com
- Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức – Lênin
- Mẫu thẻ liệu trình dịch vụ spa và mẫu thẻ tích điểm, hội viên, thẻ khách hàng đẹp
- Cấu tạo của mũ bảo hiểm và chức năng của từng bộ phận
- Nghị luận về lý tưởng sống của thanh niên hiện nay (8 Mẫu) – Văn 12
Bài mẫu 1: Nêu cảm nhận của em về bài thơ ông đồ của Vũ Đình Liên
Bố cục
1. Lễ khai trương
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
- Cảm nhận hình tượng Nho giáo bình dân
- Thời gian: Mùa xuân hoa đào nở rộ.
- Chức năng: Trưng bày nghiên mực, giấy đỏ – những công cụ chính của Nho giáo.
- Vị trí: Bên đường đông đúc ⇒ Mùa xuân nườm nượp người.
-
- “Bao nhiêu người làm văn…để khen tài”: ưu việt hơn khoa học, Nho giáo khẳng định vị trí của mình trong lòng người, tức là nhân sinh quan. tài năng và giáo dục.
- Tôi cảm nhận được sự suy tàn của Nho giáo và hình ảnh ông đồ “năm nào không gặp”: chữ “nhưng” tạo thành một khúc ngoặt trong cảm xúc người đọc, sự suy tàn ngày càng nhiều rõ ràng, đó là cảm giác rõ ràng nhất và đau đớn nhất đối với con người.
- “Người thuê viết bây giờ ở đâu?”: Một câu hỏi của thời đại, nhưng cũng là một câu hỏi của sự tự suy ngẫm.
- “Giấy đỏ…sầu”: hình ảnh nhân hóa, trang giấy bẽ bàng, dòng mực buồn chảy trong nghiên cứu hay tâm trạng của chính người nghệ sĩ, không thể giải quyết được.
- “Lá bàng…trời mưa”: Tả cảnh ngụ tình: nỗi lòng của một cụ già. Đây là hai câu đặc sắc nhất của bài thơ này. Lá vàng rơi ngụ ý cô đơn, suy tàn, buồn bã, mưa bụi ngụ ý lạnh lùng ⇒ tâm trạng con người u uất, cô đơn, buồn bã.
- Cảm nhận của nhà thơ:
- Thời gian: Mùa xuân hoa đào nở rộ (lại: sự lặp lại của cảnh vật thiên nhiên)
- Hình ảnh: “Vô hình”, phủ nhận sự tồn tại của một người đã trở thành một hình thức ngưỡng mộ.
- ⇒ Kết cấu kết bài tương ứng làm nổi bật chủ đề của bài thơ.
- “Người muôn năm… bây giờ?”: Câu hỏi dường như không đi tìm câu trả lời mà như tủi thân, tiếc cho chính mình.
- Tóm lại giá trị nội dung và nghệ thuật của toàn bài thơ: bố cục cô đọng, ngôn ngữ sinh động, khắc họa thành công hình ảnh ông đồ và chuyện đời của Nho sĩ. …
⇒ Là câu hỏi tu từ, thể hiện tấm lòng xót xa, đau khổ của tác giả trước sự suy vong của Nho giáo đương thời.
3. Kết thúc
Trang tính
Dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lùi về dĩ vãng, để lại trong lòng người bao tiếc nuối. Đặc biệt là khi cô gái tài năng một thời chỉ là nhẫn. Lấy cảm hứng từ điều này, bài thơ của ông đồ thể hiện nỗi nhớ da diết và niềm thương xót cho những giá trị tinh thần đang lụi tàn. Bài thơ này phản ánh tâm hồn thơ nhân ái và hoài cổ của Wu Tinglian.
Ra đời từ Phong trào thơ mới, thơ thoát ra khỏi hai trục cảm xúc chủ đạo của thời đại là tình yêu và thiên nhiên. Khi các nhà thơ Lãng mạn đắm chìm trong cái tôi cá nhân, cố gắng mô tả thực tế mà họ muốn có, và say sưa với những giấc mơ của họ, thì Wu Tinglian, một trí thức phương Tây, đã kinh ngạc nhìn lại. Hậu phương chợt nhận ra “tội nghiệp, tàn tạ của một thời đại”. ông đồ – nhân vật Nho giáo cuối cùng tồn tại trong nghìn năm phong kiến của Việt Nam.
Con dốc trơn trượt của Nho giáo đã khiến bao tầng lớp nhân dân trở thành nạn nhân của đau khổ. Ông nội của Vũ Đình Liên là chứng tích của một mỹ nhân đã vĩnh viễn ra đi. Đó là một hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người nên nó chưa hoàn toàn biến mất, đặc biệt là đối với một người luôn hoài niệm về những ngày xưa cũ như Wu Tinglian. Khi những lời cao đẹp của thánh nhân không còn chỗ đứng, phải đi bộ trên vỉa hè, lòng phố, trở thành món hàng… Người ta bàng hoàng, sững sờ, tiếc nuối cho hào quang một thời. Đoạn thơ thể hiện tình cảm ấy, tạo nên sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình:
Đào nở mỗi năm
Tạm biệt ông già
Hiển thị giấy và mực đỏ
Bên một con phố đông đúc.
Có những hình ảnh, ấn tượng đã khắc sâu vào ký ức của một chàng trai còn rất trẻ. Vòng hoa đào, tranh ông đồ, mực, giấy đỏ tạo nên nét thiêng liêng của không gian văn hóa dân tộc khi Tết đến xuân về. Nhưng chúng ta không khỏi xúc động khi chứng kiến cảnh những người già phải dấn thân vào con đường mưu sinh. Nghèo nàn trông già hay tôn giáo trên bờ vực suy tàn? Trớ trêu thay, nơi anh bám lấy nét đẹp văn hóa và mưu sinh mới lại là “bên lề đường đông đúc”. Những bóng người lẻ loi, hoang vắng dường như bất lực trước hiện thực phũ phàng. Trong nhịp sống hối hả, hình ảnh ông đồ ngay giữa chợ hiện lên từng lời nói về tài năng và tâm huyết của một người:
Có bao nhiêu người thuê viết
Ca ngợi thủ đô
Vẽ tay
Rồng bay phượng múa
Đó là dư âm của một thời đã qua và là hình ảnh buồn của một cuộc đấu tranh tuyệt vọng tỏa sáng như mặt trời chói chang cuối ngày. Cảnh chen chúc nhau mua câu đối, chữ mới khiến người dân xót xa. Trong mỗi người, có ai thực sự tiếc nuối cho sự xuống cấp đáng trách của chữ thánh – một giá trị tinh thần bị hạ thấp ngang với giá trị vật chất?
Mặc dù sự xuất hiện của thầy Du đã làm tăng thêm vẻ đẹp truyền thống trang trọng và ấm cúng cho ngày đầu năm mới, nhưng nét chữ “phiêu như phượng múa” lại được mọi người khen ngợi vì cố gắng giữ lại chút thể diện cuối cùng. , nhưng làm sao tránh khỏi cảm giác tủi nhục, nhục nhã? Nhưng danh dự còn lại không tồn tại mãi mãi, nó vẫn bị năm tháng khắc nghiệt chôn vùi không thương tiếc:
Xem Thêm : Cắm hoa theo chủ đề tình thầy trò
Nhưng năm nào cũng vắng
Người thuê viết cái này ở đâu
Tờ giấy đỏ buồn quá
Vết mực còn sót lại trong phòng làm việc.
Khổ thơ là cái nhìn của đôi mắt thất vọng: “Người ở trọ viết bây giờ ở đâu?”, nhịp điệu đau đớn, khắc khoải: “Năm này qua năm khác”. Sự suy tàn của văn hóa Nho giáo là tất yếu, cũ mới xen kẽ, hào quang lụi tàn, bị lãng quên, dửng dưng trong dòng đời vật lộn mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến lớp người ở thế giới bên kia như Wu Tinglian thấy hoang vắng, buồn tủi. trước mặt họ Khi cảnh tượng được nhìn thấy, họ cảm thấy xấu hổ và buồn bã. Giữa màu giấy nhơ nhuốc, giọt mực kết tủa băng giá gợi lên cảm giác hoang vắng. Đó vừa là ngoại cảnh, vừa là tâm trạng, là một nỗi niềm sâu kín khiến cho vật vô tri cũng buồn như chính chủ nhân của nó, “tri kỉ sầu một mình”, “băn khoăn, than thở thời thế đổi thay”. Đáng buồn hơn, đến câu thơ thứ tư, hình ảnh người đàn ông lặng lẽ, cô độc trong khung cảnh mùa đông vẫn hiện lên:
Ông già vẫn ngồi đó
Đi trên con đường không ai biết
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời đang mưa.
Không còn chút hy vọng, ông lão kiên nhẫn chờ đợi một chút công sức cho một hạt gạo. Nhưng thứ đáp lại sự chờ đợi trong tuyệt vọng là bóng dáng nhộn nhịp, hờ hững, quên mất sự tồn tại của anh. Giữa tiếng ồn ào xung quanh, là bóng dáng cô đơn của một ông già. Sự đối lập giữa ông lão và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ chạnh lòng. Giữa không gian đông đúc ấy, ông cụ vẫn ngồi đó, dáng ngồi trầm tư khác hẳn với Ruan Kun “kê gối không được lâu” năm xưa. Từng đợt từng đợt lá vàng rơi trên đường, trên giấy, giống như dùng ánh mắt mê mang nhìn chằm chằm sương khói ngoài cửa sổ, khiến người ta nhiều cảm xúc, động lòng người. Một không gian hoang vắng và hoang vắng. Chợt tôi nhớ đến bài thơ của loài chim yến ở bến Mailang: “Trăng tròn vằng vặc viết văn”. “Lá vàng giấy rơi” còn gợi ra một không gian đượm buồn. “Lá vàng rơi”, số phận bi đát của ông lão đã đến hồi kết:
Bài mẫu 2: Cảm nhận của em về việc làm của Vũ Đình Liên đối với ông đồ
Trang tính
Vũ Đình Liên (1913 – 1996) là nhà giáo dạy làm thơ. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với bài thơ “Ondo” hình ngôi sao năm cánh gồm 20 khổ thơ. Thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt nhưng lại thể hiện một hồn thơ chan chứa tình người và mang một nỗi nhớ da diết.
Ông lão là một nhà Nho, thi làm quan không được điểm cao, chỉ ngồi trên lầu dạy hiền. Người ông mà nhà thơ nhắc đến là một nhà Nho lỗi lạc. Anh xuất hiện vào mùa hoa anh đào… trên con phố đông đúc. Anh ấy có những ngày tốt đẹp, những kỷ niệm đẹp :
Vẽ bằng tay như phượng múa rồng.
Hoa đào nở rộ. Giấy đỏ đẹp, mực đen tuyền. Nét chữ tài hoa. Còn gì hạnh phúc hơn thế này:
Trên đường phố đông đúc, biết bao người viết thư khen tài
Thời thế đã thay đổi, Hán học đã lụi tàn trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Du Pont từng viết:
Không có thứ gọi là bản in đẹp.
Ngày xưa thuê viết bao nhiêu, thuê viết bây giờ ở đâu? Một câu hỏi gây nhiều bối rối, thương cảm. Nỗi buồn từ đáy lòng khô mực đọng lại trong phòng làm việc, như trang giấy nhuộm đỏ, buồn bã. Giấy đỏ, mực nhân hóa, thấm đẫm nỗi buồn tê tái của thế gian: Giấy đỏ buồn không đẫm mực chìm trong sầu…
Cảnh buồn. buồn. Wu Tinglian ngây ngất và viết hai bài thơ hay và cảm động.
Nỗi buồn trong lòng người tràn ngập không gian cảnh vật. Dưới mưa gió và cát bụi, ông lão vẫn ngồi đó bất động, cô đơn và hoang vắng: “Qua đường không ai biết”. Màu vàng của lá, màu trắng của giấy, mưa bụi trên trời, mưa trong lòng người. Nỗi buồn kéo dài:
Lá vàng rơi trên trang giấy! trong mưa và bụi.
Thơ tả ít mà ngụ ý nhiều. Đại cảnh thê lương thê lương.
Đoạn thơ kết thúc bằng câu hỏi, thể hiện một nỗi buồn trống vắng, thương tiếc, ngậm ngùi. Hoa đào lại nở, cố nhân đâu?
Xem Thêm : TÊN FACEBOOK HAY 2022 ❤❤❤ Những tên FB chất, ngầu
Năm nay hoa đào lại nở, cổ vật xưa nay không thấy, hồn xưa ở đâu?
Thương người già cũng là thương một loại người mãi quay về quá khứ. Thương ông cũng là thương cho một nền văn hóa đang chết dần dưới ách thống trị của ngoại bang. Sự đồng cảm sâu sắc của Wu Tinglian dành cho ông Du bao trùm và thấm sâu vào từng câu thơ. Thủ pháp tương phản kết hợp nhân hóa, ẩn dụ tạo nên nhiều hình ảnh giàu sức gợi, thể hiện một phong cách nghệ thuật điêu luyện, táo bạo.
Bài thơ chứa chan tinh thần nhân đạo. Để theo đuổi sự nghiệp văn chương, chỉ cần viết một bài thơ là đủ. Nghĩa là đủ biết (hoài thanh). Đó là những lời tốt đẹp nhất, trân trọng nhất mà thi nhân Việt Nam dành tặng Vũ Đình Liên và kiệt tác “Ôn Du” của ông.
Bài mẫu 3: Phát biểu cảm nhận về bài thơ “Ông Du” của nhà thơ Wu Tinglian
Trang tính
Ông Du, một hình ảnh rất quen thuộc trong xã hội Việt Nam xưa. Đó là biểu tượng của Nho giáo không làm quan mà luôn dạy học. Sau khi hệ thống khoa bảng Nho giáo bị bãi bỏ, ông bị loại ra khỏi xã hội và phải viết trong kỳ nghỉ Tết sắp tới. Thời thế thay đổi, vạn vật thay đổi, người cũ cũng dần dần biến mất, chỉ còn lại một cái đáng thương cùng đổ nát tàn tích của thời đại. Wu Tinglian bày tỏ sự cảm thông về sự kết thúc của thời đại Nho giáo trong bài thơ “On Du” xuất sắc và sắc sảo của mình.
Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh “ông đồ” quen thuộc.
Mỗi năm khi hoa đào nở rộ, tôi sẽ thấy một ông già tô mực đỏ trên đường phố đông đúc
Trong không khí vui tươi rộn ràng của ngày hội xuân, ông lão ngồi bên góc đường, tay cầm giấy mực đỏ chờ người nhờ viết câu đối. Ngày xưa người ta tặng chữ chứ có ai bán chữ đâu. Nhưng giờ anh phải bán chữ. Giọng thơ trầm ấm tạo nên không khí hồi hộp, hoang vắng. Nhưng lúc này, ông lão cũng rất yên tâm, bởi vì mọi người vẫn thích dùng chữ tượng hình để trang trí trong dịp Tết Nguyên đán. Vì vậy, có:
Bao nhiêu tá điền viết văn khen tài, vẽ tay phượng múa rồng bay, v.v.
Nhà thơ tổng kết tài tình, tài hoa trong bút pháp của mình bằng nghệ thuật tương phản tài tình. Những phác thảo này giống như một con phượng múa rồng. Nó có một màu sắc đẹp và kết cấu. Mọi người đều ca ngợi tài năng theo cùng một cách. Thời bấy giờ, nhà nào cũng thích dán câu đối đỏ để ngày Tết trông đẹp mắt hơn. Nhưng sau khi du nhập văn hóa phương Tây, sở thích của mọi người dần thay đổi. Những người thích chữ viết tay ngày càng ít đi, và những người lớn tuổi đang dần bị lãng quên.
Nhưng hàng năm, tá điền có nhớ không?
Bây giờ anh ấy trông giống như một nghị sĩ chiến thắng, giống như một cô gái đã bỏ lỡ :
<3
Người thuê viết bây giờ ở đâu? Câu hỏi đặt ra cho tác giả, tác giả và người đọc khơi dậy những hoài niệm. Theo thời gian, sự đau buồn và muộn phiền của anh bắt đầu trỗi dậy, thậm chí ngấm vào những đồ vật vô tri vô giác. Tác giả đã khéo léo nhân hóa hình ảnh tờ giấy đỏ và nghiên mực, nước giặt. Tờ giấy đỏ phải phơi ra, không ai để ý, nên những vết bút dạ từng tô điểm nay chồng chất thành một nốt nhạc buồn. Trong căn phòng làm việc u buồn ấy phảng phất một nỗi buồn vương vấn của cả bức tranh và tác giả. Buồn và tủi nhục, nhưng anh vẫn ngồi đó, cố níu kéo sự sống, như muốn kéo ngược thời gian. Thật đáng tiếc khi không có ai tốt.
Ông già vẫn ngồi đó, chẳng biết ai qua đường, lá vàng rơi trên trang giấy ngoài trời mưa bụi.
Thật là một tai nạn tàn khốc. Nếu nói trước đây, ông luôn là người được mọi người ngắm nhìn và ngưỡng mộ với những lời khen ngợi, thì giờ đây, chỉ còn hình ảnh một ông già cô độc lạc lõng giữa cuộc sống xô bồ. Và giữa dòng người tấp nập, ai chợt quay lại thương hại một cụ già? Anh vẫn ngồi đó, lặng lẽ chờ đợi, nhưng rốt cuộc chẳng có ai đến bên anh. Nhưng không hẳn, có một người trong dãy người bị lãng quên lại nhớ ra, thay vào đó lại ngoan ngoãn đọc hai từ cảm thông.
Những chiếc lá vàng rơi trên giấy ngoài trời mưa.
Chiếc lá vàng còn sót lại cũng bị gió thổi bay rơi trên trang giấy. Nó nằm đó như thể đã ngừng sinh sản. Người đàn ông ngồi trầm ngâm không thèm nhặt lên. Ngoài tình cảm của anh còn có mưa bụi của trời đất. Những hình ảnh chân thực nhưng chất chứa nhiều cảm xúc. Mưa ngoài trời là mưa trong lòng người. Phong cảnh hay thơ tình? Bước cuối cùng của cuối cùng buồn làm sao! Lời bài thơ tuy nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, kết hợp với giọng thơ trầm buồn, mang đến cho người đọc một nỗi buồn khôn tả.
Theo nhịp thời gian, đông qua xuân tới, hoa đào lại nở. Cảnh cũ còn đó mà người xưa đã đi rồi.
Năm nay hoa đào nở, người xưa không thấy
Trong ký ức con người, hình ảnh ông đồ xưa đã thực sự phai nhạt theo thời gian. Tate đến thì không thấy ông lão đâu, đường phố vẫn nhộn nhịp người đi đường nhưng ông lão cầm tờ giấy mực đỏ đã biến mất. Hình ảnh người cao tuổi đã là dĩ vãng. Trong khắc nghiệt của năm tháng, con trai con gái thay phiên nhau, vật đổi sao dời, ông lão cố gắng vươn đôi bàn tay gầy guộc nắm lấy sự sống. Nhưng con nhạn không thể thành suối, người già không thể thành trời. Anh không còn đủ kiên nhẫn để cố chấp trong cuộc sống khắc nghiệt đó. Người đã để lại một quá khứ huy hoàng của một thời huy hoàng. Cả bài thơ kết thúc bằng một nỗi niềm man mác buồn của nhà thơ.
Những linh hồn xưa giờ ở đâu?
Hai câu thơ như một nén nhang tưởng niệm sự hưng thịnh của Nho giáo truyền thống của nền văn hiến dân tộc Trung Hoa. Người xưa đi rồi, nhưng tâm hồn họ, giá trị họ đóng góp cho đời sống tinh thần đất nước bây giờ ở đâu? Câu hỏi này luôn thường trực trong đầu tác giả, và nó luôn thường trực trong đầu người đọc.
Cố nhân là một hình ảnh, một tàn tích nghèo nàn của một thời đã qua. Anh như ngọn đèn sáng tô điểm cho đời rồi vụt tắt. Cái hay của bài thơ này là tuy làm bằng ngũ ngôn, vỏn vẹn có 5 khổ nhưng cô đọng cả một số phận, một con người, một thế hệ. Với giọng điệu buồn, cách hỏi trìu mến, ngôn ngữ trong sáng, bài thơ này đã đánh thức tư tưởng của biết bao người, vừa có hình ảnh vừa có cảm xúc. Nó diễn tả cuộc sống suy vi của một thế hệ nho sĩ, xen lẫn với nỗi nhớ da diết, hoài cổ của nhà thơ. Ít người không khỏi bàng hoàng trước thái độ tàn nhẫn của họ đối với những trí thức Nho gia xưa, để rồi mỗi lần đọc lại bài thơ đều hối hận thì đã quá muộn.
Bài thơ này là tác phẩm độc đáo nhất của Wu Tinglian. Đó là một trong những bài thơ hay, mở đầu cho một cuộc đổi mới sâu sắc của thơ ca. Một trong những thành công của bài thơ này là nó thể hiện được tình cảm chân thành của tác giả. Chính vì vậy, bài thơ này đã đi sâu vào tâm khảm của mỗi chúng ta. Dù thời gian có đổi thay, nền Nho giáo không còn nhưng hình ảnh ông Du trong thơ của Wu Tinglian sẽ trường tồn mãi với thời gian.
⇒ So sánh khung cảnh với hai phần trước ⇒ Đau khổ, vẫn một ông già, vẫn một thiên tài xuất hiện, chẳng cần ai viết, khen ngợi.
⇒ Việc khơi gợi không khí phồn thực truyền thống và nét văn hóa ngày xuân không thể thiếu trong tâm thức truyền thống dân tộc là rất hữu ích.
⇒ Hình ảnh thân quen, gần gũi từ xưa đến xuân về.
2. Nội dung bài đăng
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Đề văn 8: Viết cảm nghĩ của em về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn