Cùng xem Khái quát về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên youtube.
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp? Cho đến nay, khái niệm năng lực cạnh tranh của công ty vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Dưới đây là một số cách tiếp cận đáng chú ý của từng công ty cụ thể đối với khả năng cạnh tranh.
1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1. khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
* khái niệm kinh doanh cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh ra đời khi nền kinh tế thị trường xuất hiện. Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, đã có nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh:
Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên thị trường một lượng không gian giao dịch nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần khả năng riêng của họ.
Cạnh tranh theo nghĩa kinh tế là quá trình đấu tranh không ngừng giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường để thực hiện lợi ích và mục tiêu kinh tế của chính họ. động lực nội tại của cạnh tranh là lợi ích kinh tế của bản thân kinh tế, thể hiện trong quá trình cạnh tranh bằng cách duy trì hoặc mở rộng mức độ chiếm lĩnh thị trường, tăng mức tiêu thụ và nâng cao lợi nhuận. sức ép cạnh tranh từ bên ngoài là sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ, kẻ thua sẽ bị đào thải.
từ điển kinh doanh của ông (xuất bản năm 1992): cạnh tranh được coi là sự ganh đua, ganh đua giữa các thương gia trên thị trường để tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía họ.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: cạnh tranh là hoạt động cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa thương nhân và nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, do quan hệ cung – cầu chi phối, nhằm giành những điều kiện thuận lợi nhất về sản xuất, tiêu dùng và thị trường.
cạnh tranh buộc người sản xuất và người kinh doanh phải cải tiến kỹ thuật và tổ chức của mình để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và thay đổi mẫu mã, bao bì để thích ứng với thị hiếu tiêu dùng của khách hàng; duy trì sự tin tưởng; cải tiến hoạt động kinh doanh và dịch vụ, tiết giảm chi phí, ổn định hoặc giảm giá bán, tăng lợi nhuận.
theo karl marx, khi nghiên cứu sự hình thành lợi nhuận bình quân và sự chuyển hoá giá trị hàng hoá thành giá trị thị trường và giá cả sản xuất, ông cũng đề cập đến sự cạnh tranh gắn liền với quan hệ cung cầu về hàng hoá. C.Mác đã phân chia cạnh tranh thành cạnh tranh nội ngành và cạnh tranh giữa các ngành; cạnh tranh giữa người bán khi cung lớn hơn cầu và cạnh tranh giữa người mua khi cầu lớn hơn cung. [2]
Như vậy, qua các khái niệm nêu trên, chúng ta có thể hiểu đầy đủ: cạnh tranh là một quá trình kinh tế trong đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành khách hàng và những điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thực chất của cạnh tranh là sự cạnh tranh về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia thị trường.
* khái niệm về khả năng cạnh tranh (nlct) của các công ty:
khả năng cạnh tranh là gì?
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCD), khả năng cạnh tranh là khả năng tạo việc làm và thu nhập cao hơn của các công ty, ngành, quốc gia và khu vực trong các điều kiện thương mại quốc tế.
theo từ điển bách khoa Việt Nam: Năng lực cạnh tranh là khả năng của một sản phẩm, một đơn vị kinh doanh hoặc một quốc gia chiến thắng (bao gồm cả việc giành lại một phần hoặc toàn bộ thị phần) trong cuộc cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ.
Một công ty được coi là có khả năng cạnh tranh khi có thể đứng vững trên thị trường và phát triển.
năng lực cạnh tranh của công ty là sức mạnh và lợi thế mà công ty có thể huy động để duy trì và nâng cao vị thế của mình so với các công ty khác trên thị trường trên cơ sở tự nguyện và lâu dài nhằm thu được ngày càng nhiều lợi nhuận.
Theo định nghĩa của wikipedia , khả năng cạnh tranh của công ty là sự thể hiện sức mạnh và lợi thế của công ty so với đối thủ trong việc đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng để thu được ngày càng nhiều lợi nhuận. , bằng cách khai thác, sử dụng thế mạnh, lợi thế bên trong và bên ngoài để tạo ra sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng nhằm tồn tại và phát triển, thu lợi nhuận cao hơn, nâng cao vị thế so với các đối thủ trên thị trường.
theo nhà quản lý chiến lược micheal poter: khả năng cạnh tranh của một công ty có thể hiểu là khả năng chiếm lĩnh thị trường đối với cùng một loại sản phẩm (hoặc sản phẩm thay thế) của công ty đó. Nếu công ty có khả năng giành và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ cao thì công ty đó có khả năng cạnh tranh cao. Michael Porter không giới hạn đối với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp, mà mở rộng ra cả đối thủ cạnh tranh tiềm năng và các sản phẩm thay thế. [11]
theo humbert lesca, khả năng cạnh tranh (nlct) của một dn là khả năng, khả năng mà một công ty có thể tự nguyện duy trì lâu dài trong một thị trường cạnh tranh và tiến bộ bằng cách nhận ra một mức lợi nhuận nhất định không đủ để bao gồm việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh.
hay nlct của một công ty cũng được định nghĩa là khả năng cạnh tranh của một công ty để đáp ứng và chống lại các đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ một cách lâu dài nhất.
Các định nghĩa trên cho thấy năng lực cạnh tranh của công ty trước hết phải được tạo ra từ năng lực và khả năng của công ty. một công ty được coi là có nhân tài khi dám chấp nhận giành lấy những điều kiện có lợi cho chính công ty đó. công ty phải có tiềm lực đủ mạnh để đứng vững trong cuộc cạnh tranh.
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên nhiều yếu tố như: giá trị sử dụng và chất lượng sản phẩm cao, điều kiện sản xuất ổn định do sản xuất chủ yếu dựa trên kỹ thuật, công nghệ hiện đại, sản xuất quy mô lớn tiên tiến nên chi phí, giá thành sản phẩm thấp hơn. Các yếu tố xã hội như duy trì niềm tin (uy tín) trên thị trường, tuyên truyền, định hướng người tiêu dùng và công chúng cũng có ảnh hưởng quan trọng, hiện nay các nhà sản xuất vẫn sử dụng một số cách thức như bán hàng trả dần cho khách hàng (theo hạn ngạch) để kích thích tiêu dùng, trên cơ sở đó , tăng khả năng cạnh tranh.
tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một công ty không chỉ cần đánh giá các yếu tố liên quan đến bản thân công ty mà điều quan trọng là phải đánh giá và so sánh hoạt động điều hành của các đối thủ trong cùng lĩnh vực, cùng thị trường. . Trên cơ sở những so sánh đó, để tạo ra khả năng cạnh tranh, các công ty phải tạo ra lợi thế so sánh so với các đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, các công ty có thể đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng mục tiêu và thu hút khách hàng từ đối thủ cạnh tranh.
Khả năng cạnh tranh của các công ty còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố của môi trường kinh doanh và những biến động khó lường của nó, sự thay đổi của môi trường kinh doanh cũng có thể là cơ hội phát triển cho các công ty. đây cũng có thể là nguy cơ phá sản của các công ty khác.
Các công ty xuất nhập khẩu kinh doanh ở phạm vi rộng hơn các công ty trong nước, tuân theo nhiều quy định ở các thị trường khác nhau. nhờ khả năng vượt trội hơn các công ty khác trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ của công ty mình đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở thị trường nước ngoài hoặc cho khách hàng nước ngoài ngay tại nước mình (xuất khẩu ở nước ngoài). địa điểm) nơi các nhà xuất khẩu giành được thị phần ngày càng tăng, tăng thu nhập ngoại tệ.
1.2. vai trò của cạnh tranh
Như chúng ta đã biết, cạnh tranh là biểu hiện đặc trưng của kinh tế trọng thương, bảo đảm quyền tự do trong sản xuất kinh doanh và đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cạnh tranh và cạnh tranh nói chung. Trên thị trường quốc tế nói riêng, các công ty luôn đưa ra các kết quả tích cực và các biện pháp sáng tạo để đứng vững trên thị trường và từ đó tăng khả năng cạnh tranh của mình. Để đạt được mục tiêu đó, các công ty phải cố gắng tạo ra nhiều lợi thế cho sản phẩm của mình và từ đó họ có thể đạt được mục tiêu cuối cùng là tạo ra lợi nhuận.
Khi sản xuất và tiếp thị một sản phẩm nhất định, lợi nhuận mà công ty thu được được xác định như sau:
pr = p.q – c.q
ở đâu:
+ pr: lợi nhuận kinh doanh
p: giá bán của hàng hóa
Xem Thêm : Cách Vẽ Tranh Đề Tại Phòng Chống Thuốc La, Vẽ Tranh Cấm Hút Thuốc Lá 2021
q: số lượng hàng hóa đã bán
c: giá mỗi đơn vị hàng hóa
khi đó, để đạt được lợi ích tối đa, các công ty có những cách như: tăng giá bán p, tăng số lượng bán q, giảm chi phí c và để làm được những điều này, công ty phải tăng vị thế của sản phẩm trên thị trường .thị trường thông qua việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp … và với chi phí thấp nhất. Ngoài ra, các công ty phải có chiến lược tiếp thị phù hợp để quảng bá sản phẩm và hàng hóa của họ với khách hàng, để họ có thể nắm bắt được sự hiện diện của những hàng hóa này và đặc điểm, tính chất, giá trị của chúng và các dịch vụ đi kèm.
chỉ khi nền kinh tế có sự cạnh tranh thực sự thì các công ty mới phải đầu tư để nâng cao tính cạnh tranh và do đó sản phẩm, hàng hoá sẽ đa dạng, phong phú và có chất lượng tốt hơn. . đó là tầm quan trọng của cạnh tranh đối với các công ty sản xuất và thương mại.
Có cạnh tranh, hàng hóa sẽ ngày càng có chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của người tiêu dùng trong xã hội. người tiêu dùng có thể dễ dàng và thoải mái lựa chọn những sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. lợi ích thu được từ hàng hóa ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của bạn nhờ các dịch vụ chu đáo hơn trước, trong và sau khi bán hàng. đây là những lợi ích mà người tiêu dùng nhận được từ cuộc thi.
Hơn nữa, cạnh tranh còn mang lại những lợi ích đáng kể cho nền kinh tế đất nước. Để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh, các doanh nghiệp đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh để tình hình sản xuất của đất nước ngày càng phát triển, năng suất lao động được nâng cao và nâng cao phong trào. Dưới góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là phương thức được nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm có chất lượng tốt, giá rẻ.
cạnh tranh luôn mang tính sống còn, khốc liệt và càng gay gắt hơn khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, trên thị trường quốc tế có rất nhiều công ty đến từ nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã tạo nên sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, không cho phép các công ty hành động theo ý mình mà buộc họ phải cạnh tranh. phát huy khả năng cạnh tranh của mình theo hai xu hướng: tăng chất lượng sản phẩm và giảm giá thành sản phẩm. Để đạt được điều này, các công ty phải biết tận dụng tối đa lợi thế so sánh của quốc gia mình để tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, các công ty phải chú trọng đầu tư trang thiết bị hiện đại, không ngừng đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. những điều này sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cho đất nước, các nguồn lực được sử dụng tối đa cho sản xuất, trình độ khoa học kỹ thuật của đất nước không ngừng được nâng cao.
do đó, có thể nói, cạnh tranh là động cơ phát triển cơ bản để kết hợp hợp lý giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Cạnh tranh tạo ra môi trường tốt để các công ty kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này không phải công ty nào cũng được lợi, có công ty sẽ bị tiêu diệt do không đủ sức cạnh tranh, có công ty sẽ thực sự phát triển nếu biết phát huy thế mạnh và tiềm năng của mình. nhưng cạnh tranh không phải là triệt tiêu mà là thay thế, thay thế những doanh nghiệp thua lỗ, lãng phí nguồn lực của xã hội bằng những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của xã hội, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tóm lại: cạnh tranh là động cơ thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia và mỗi công ty.
xem thêm & gt; & gt; & gt; mô hình 5 áp lực cạnh tranh
2. các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty
Khả năng cạnh tranh của công ty là thể hiện sức mạnh và lợi thế của công ty so với đối thủ nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng nhằm tạo ra lợi nhuận không ngừng tăng lên. do đó, năng lực cạnh tranh của công ty trước hết phải được tạo ra từ sức mạnh của công ty. Đây là những yếu tố nội tại của mỗi công ty, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân sự, quản trị doanh nghiệp, v.v. riêng biệt, nhưng cũng cần được đánh giá và so sánh với các công ty đối tác cạnh tranh khác hoạt động trong cùng lĩnh vực, cùng thị trường. Sẽ không có ý nghĩa gì nếu các điểm mạnh và điểm yếu bên trong của công ty không được đánh giá thông qua một sự so sánh tương ứng với các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở những so sánh đó, để tạo ra khả năng cạnh tranh, các công ty phải tạo ra lợi thế so sánh so với các đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, các công ty có thể đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng mục tiêu và thu hút khách hàng từ đối thủ cạnh tranh.
Để đánh giá hiện trạng khả năng cạnh tranh của một công ty, chúng ta phải đánh giá tổng thể tất cả các khía cạnh sau:
2.1. nguồn tài chính
Vốn là nguồn lực mà các công ty cần đầu tiên vì không có vốn thì không thể thành lập doanh nghiệp và không thể tiến hành các hoạt động kinh doanh. Công ty cạnh tranh là công ty có nguồn vốn dồi dào luôn đảm bảo huy động vốn khi cần thiết, công ty đó phải sử dụng vốn hiệu quả và hạch toán chi phí rõ ràng. Vì vậy, các công ty nên đa dạng hóa các nguồn vốn của mình vì thiếu vốn sẽ hạn chế rất nhiều đến hiệu quả hoạt động của công ty như đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại, hạn chế đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, công nhân, nghiên cứu thị trường…
Năng lực tài chính là một yếu tố rất quan trọng trong việc xem xét tiềm lực của một công ty mạnh hay yếu. Trong tiêu chí này có các nhóm chỉ tiêu chính:
chỉ số đánh giá cấu trúc vốn. tỷ lệ nợ = tổng nợ phải trả / tổng vốn chủ sở hữu (%)
Tỷ lệ này càng thấp, doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào các khoản vay bên ngoài. tỷ lệ này nên duy trì trong mức trung bình của ngành.
nhóm tiêu chí về khả năng thanh toán.
khả năng thanh toán nhanh = (tiền mặt / tổng nợ ngắn hạn)
Tỷ lệ này cho biết một đô la nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng tiền mặt khả dụng. Tỷ lệ này càng cao càng tốt, tuy nhiên bạn vẫn cần xem xét kỹ các khoản phải thu có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của công ty hay không. nếu hoạt động kinh doanh bình thường, hệ số này thường bằng 1.
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = tổng tài sản lưu động / tổng nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này cho biết có bao nhiêu tài sản lưu động được đảm bảo bằng một đô la nợ ngắn hạn. nếu tỷ trọng này quá nhỏ, công ty sẽ mất khả năng thanh toán. Nếu tỷ số này quá cao, công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động, không tạo ra hiệu quả lâu dài. mức hợp lý là bằng 2.
nhóm tiêu chí đánh giá hiệu suất.
tỷ suất lợi nhuận / doanh thu = lợi nhuận / doanh số (%)
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng hay 100 đồng thu nhập thì thu được bao nhiêu đồng thu nhập. chỉ số này càng cao càng tốt.
Tỷ suất Lợi nhuận / Vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận ròng / Tổng vốn chủ sở hữu (%) Các tiêu chí trên sẽ giúp công ty có được khả năng cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh. [8]
2.2. nguồn nhân lực
Trong kinh doanh, con người là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo thành công. Kenichi Ohmae đã đặt mọi người lên hàng đầu so với vốn và tài sản khi đánh giá sức mạnh của một công ty. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là đối với các công ty thương mại để cung cấp dịch vụ hiệu quả nhất cho khách hàng.
Nguồn nhân lực được phản ánh ở số lượng và chất lượng của lực lượng lao động của công ty như trình độ học vấn, trình độ tay nghề, sức khỏe, văn hóa làm việc … công ty có tiềm năng về con người như có đội ngũ nhân viên trung thành và có trình độ chuyên môn cao. từ đó năng suất lao động cao, giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trên thị trường.
2.3. nhãn hiệu, nhãn hiệu
thương hiệu, nhãn hiệu được coi là sức mạnh vô hình của doanh nghiệp.
nhãn hiệu có khả năng ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ sản phẩm của công ty. Thương hiệu công ty có thể trải qua các phân cấp sau: thương hiệu bị loại bỏ, thương hiệu không được chấp nhận, thương hiệu được chấp nhận, thương hiệu ưa thích và thương hiệu nổi tiếng. Cấp độ nhãn hiệu càng cao, khả năng tiêu thụ sản phẩm càng lớn thì công ty càng có nhiều lợi thế cạnh tranh so với đối thủ.
Khi thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp có thương hiệu sản phẩm của mình, nhưng có thương hiệu sản phẩm, thương hiệu là công việc liên tục và lâu dài, không thể một sớm một chiều. một thương hiệu được người tiêu dùng đón nhận và yêu thích là một thành công lớn của một công ty. đây là một lợi thế cạnh tranh lớn mà các đối thủ khác khó có được. nếu một khách hàng đã quen với một thương hiệu nào đó, thì rất khó để anh ta từ bỏ nó. thương hiệu doanh nghiệp được tạo nên bởi nhiều yếu tố như uy tín doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, hình ảnh người lãnh đạo, văn hóa doanh nghiệp … nên trên thị trường có rất ít công ty có được sản phẩm cạnh tranh hay thương hiệu doanh nghiệp có lợi thế. bất kỳ doanh nghiệp nào có được lợi thế này đều có được năng lực cạnh tranh cao để vượt lên so với các đối thủ khác.
2.4. trình độ tổ chức, quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của công ty
Trình độ tổ chức và quản lý là một trong những yếu tố quan trọng nhất tạo nên tính cạnh tranh cao của sản phẩm. Muốn tổ chức và quản lý tốt thì trước hết một công ty phải có một người lãnh đạo giỏi, có tâm, có tầm và có tài. Bộ phận lãnh đạo của tổ chức có vai trò rất quan trọng, nó là bộ phận điều hành, sở hữu mọi nguồn lực của tổ chức, vạch ra những định hướng chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của các bộ phận để thực hiện các hoạt động của tổ chức dưới sự lãnh đạo của mình với hiệu quả tối đa. lãnh đạo có vai trò vô cùng quan trọng nên cần lựa chọn người lãnh đạo, người đứng đầu ban lãnh đạo phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để điều hành, quản lý doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Nhìn chung, một nhà lãnh đạo giỏi là người có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng quan hệ, hiểu người và thu phục lòng người, có kỹ năng nhận thức chiến lược, tức là nhạy bén với những thay đổi của môi trường kinh doanh để dự báo và xây dựng chiến lược thích ứng.
Để được tổ chức và quản lý tốt, vấn đề thứ hai mà các công ty phải có là một phương pháp quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh tốt. Đây là phương pháp quản lý hiện đại đã được nhiều công ty trên thế giới áp dụng thành công như quản lý tình huống, quản lý chất lượng…
Xem Thêm : Vẽ Đồ Ăn Đơn Giản – Vẽ Đồ Ăn Thức Uống Cute Đáng Yêu, Vẽ Hình Cute
Ngoài ra, để tổ chức và quản lý tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty phải có hệ thống tổ chức gọn nhẹ. Hệ thống tổ chức gọn nhẹ là hệ thống tổ chức cấp thấp, linh hoạt, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi, quyền lực được phân chia để có thể truyền đạt mệnh lệnh nhanh chóng, góp phần tạo ra năng suất cao.
mặt khác, các công ty cần có một nền văn hóa doanh nghiệp tốt, mạnh mẽ và có bản sắc, được các thành viên trong tổ chức nhìn nhận gắn kết theo một hướng, tạo nên một tập thể vững mạnh. có nghĩa là có sự cam kết về chất lượng và minh bạch giữa công ty và xã hội, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải tuân thủ pháp luật, có lương tâm và đạo đức trong kinh doanh, kinh doanh tốt và tích cực tham gia các hoạt động môi trường, môi trường môi trường bên trong và bên ngoài nên xanh, sạch, đẹp…
2.5. nghiên cứu thị trường và các hoạt động tiếp thị
nghiên cứu thị trường là một nghề rất quan trọng. Để kinh doanh thành công, một công ty phải nghiên cứu thị trường để lựa chọn thị trường mục tiêu. Nếu nghiên cứu thị trường được thực hiện một cách bài bản, nó sẽ giúp các công ty giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh, giảm chi phí không cần thiết, đưa ra quyết định bán cái gì, tập trung vào ai để mua, cách thức quảng bá và định giá sản phẩm, nhà cung cấp nào sử dụng, những khó khăn về pháp lý và hành chính. Sẽ nảy sinh. được tìm thấy và cách xác định các cơ hội hoặc khoảng trống mới trong ngành. Ngược lại, nếu nghiên cứu thị trường thu thập thông tin không chính xác, không phản ánh chính xác tình hình thị trường thực tế và do không dựa trên cơ sở thông tin chắc chắn thì quyết định đưa ra sẽ không sát với thực tế, dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. . lãng phí nhân lực và vật lực. tài nguyên.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, hoạt động marketing trở nên vô cùng quan trọng đối với các công ty. Marketing tốt là thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng, đảm bảo cung cấp sản phẩm và dịch vụ ổn định với chất lượng yêu cầu, đúng giá, giúp doanh nghiệp thắng trong cạnh tranh và thu lợi nhuận cao về lâu dài. Marketing giúp công ty lựa chọn khách hàng, xác định đối thủ cạnh tranh là ai và quảng bá hình ảnh uy tín của công ty trên thương trường. chất lượng cao hơn và các hoạt động tiếp thị của công ty càng rộng thì càng có nhiều công ty có thể tạo ra lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh.
2.6. cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ
công nghệ là một phương pháp, một bí mật, một công thức để tạo ra sản phẩm. để sử dụng hiệu quả công nghệ, các công ty phải lựa chọn công nghệ phù hợp để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; Bạn cần đào tạo công nhân lành nghề để kiểm soát và điều khiển công nghệ, nếu không công nghệ hiện đại sẽ không được sử dụng hiệu quả. Để đánh giá công nghệ kinh doanh, chúng ta cần đánh giá nội dung sau:
đầu tiên: chi phí nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ mới
Khả năng cạnh tranh của hàng hóa của các công ty sẽ tăng lên khi giá hàng hóa của họ thấp hơn giá thị trường trung bình. Để có lãi, các công ty phải tăng năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hóa. Để làm được như vậy, các công ty phải không ngừng cải tiến công nghệ. thực tế đã chỉ ra rằng các công ty muốn tồn tại và cạnh tranh trên thị trường thì cần phải có những dây chuyền công nghệ mới. do đó, các công ty càng quan tâm và đầu tư nhiều hơn cho việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất thì khả năng cạnh tranh của các công ty càng cao.
thứ hai: trình độ công nghệ hiện đại
Để có khả năng cạnh tranh, doanh nghiệp phải trang bị công nghệ hiện đại, là công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu tốn ít năng lượng, nguyên liệu thô, năng suất cao, tính linh hoạt cao, chất lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ của công ty càng hiện đại sẽ giúp công ty tăng năng suất lao động, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
3. môi trường cạnh tranh của các công ty
3.1. môi trường vĩ mô
Khu vực hóa và toàn cầu hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh với quy mô ngày càng lớn, phạm vi ngày càng rộng hơn, xu hướng hội nhập kinh tế đang diễn ra rất mạnh mẽ có ảnh hưởng quan trọng đến các công ty tập trung vào sản xuất và kinh doanh. hoạt động trên thị trường nước ngoài. Đối với các công ty xuất nhập khẩu kinh doanh tại một quốc gia nào đó, ngoài việc tìm hiểu hệ thống thương mại quốc tế, các chính sách kinh tế của chính phủ,… họ còn phải nắm rõ các định chế quốc tế mà quốc gia đó tham gia. tận dụng cơ hội cũng như thách thức để thực hiện các kế hoạch kinh doanh phù hợp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
* môi trường chính trị, luật pháp và kinh tế của tiểu bang
chính trị và luật pháp là cơ sở cho hoạt động thương mại của các công ty, đặc biệt là đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu vì các công ty này hoạt động trên thị trường cạnh tranh quốc tế với lợi thế so sánh giữa các quốc gia. chính trị ổn định, luật pháp đồng bộ rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty tham gia cạnh tranh và cạnh tranh hiệu quả.
Các quy định bắt buộc của pháp luật đôi khi là rào cản đối với sự xâm nhập của các sản phẩm nước ngoài, đó có thể là các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo việc làm … gây nhiều khó khăn cho các công ty xuất khẩu so với các công ty ở nước sở tại. Đôi khi có trường hợp quốc gia có chính sách ưu đãi thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước nhà, đồng thời tăng thuế nhập khẩu để hạn chế sự xâm nhập của sản phẩm nước ngoài, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm trong nước. các công ty. Để cạnh tranh với các công ty nước ngoài, các công ty phải nghiên cứu kỹ các quy định bắt buộc của nước sở tại để đảm bảo thành công và nâng cao vị thế của mình trên thị trường quốc tế.
* môi trường kinh tế: các yếu tố của môi trường kinh tế có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng cạnh tranh của công ty.
tốc độ tăng trưởng
tăng trưởng kinh tế cao hơn dẫn đến bùng nổ chi tiêu của người tiêu dùng, điều này tạo ra xu hướng thoải mái hơn đối với áp lực cạnh tranh trong một ngành. Điều này có thể mang lại cho các công ty cơ hội mở rộng để giành được nhiều thị phần hơn và thu được lợi nhuận cao hơn. ngược lại, suy thoái kinh tế sẽ dẫn đến giảm chi tiêu của người tiêu dùng, gia tăng áp lực cạnh tranh và thường làm bùng phát cuộc chiến về giá trong các ngành đã bão hòa.
tỷ lệ lạm phát
Lạm phát có thể làm giảm sự ổn định của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm hơn, lãi suất cao hơn, diễn biến tỷ giá hối đoái không ổn định. Tỷ lệ lạm phát gia tăng là mối đe dọa lớn đối với công ty: việc lập kế hoạch đầu tư trở nên rủi ro, khó dự đoán tương lai và khó xác định giá các mặt hàng công ty kinh doanh. sự không chắc chắn không khuyến khích các công ty đầu tư, làm giảm hoạt động kinh tế và làm tê liệt nền kinh tế.
tỷ giá hối đoái
diễn biến tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các công ty trên thị trường toàn cầu. Khi đồng tiền quốc gia giảm giá so với các đồng tiền khác, sản phẩm của công ty trong nước sẽ rẻ hơn sản phẩm ở nước ngoài, công ty có lợi thế về giá, làm giảm sự đe dọa của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, tạo động lực thúc đẩy các công ty đẩy mạnh xuất khẩu. . tuy nhiên, nếu các công ty sử dụng nhiều nguyên liệu nhập khẩu sẽ gặp khó khăn do phải thanh toán nội tệ, điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho công ty. và ngược lại, nếu đồng tiền quốc gia lên giá so với ngoại tệ thì hàng hóa do công ty sản xuất ra không có giá cạnh tranh, gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của công ty.
lãi suất:
Các công ty thường phải sử dụng vốn ngân hàng cho hoạt động sản xuất và thương mại, do đó, lãi suất ngân hàng ảnh hưởng mạnh đến khả năng cạnh tranh của công ty. do vay vốn ngân hàng với lãi suất cao chi phí kinh doanh tăng dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, sức cạnh tranh của công ty giảm so với đối thủ, đặc biệt là đối thủ có lãi suất cao. . tiềm năng.
* môi trường văn hóa xã hội.
Môi trường toàn cầu đã làm cho các nền văn hóa trở nên tương đồng, các quốc gia có sự giao lưu học hỏi lẫn nhau. tuy nhiên, dù hội nhập đến đâu thì mỗi quốc gia vẫn giữ được bản sắc dân tộc và các giá trị văn hóa truyền thống. Chính sự khác biệt của các yếu tố trong môi trường văn hóa ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty thông qua khách hàng và cấu trúc nhu cầu thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức giao dịch, loại sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và hình thức khuyến mại có thể chấp nhận được.
Ngôn ngữ, tập quán tiêu dùng và tôn giáo khác nhau dễ dẫn đến hiểu lầm về cách quảng bá sản phẩm hoặc sử dụng biểu tượng, bao bì và màu sắc cho sản phẩm và bao bì. Nếu không chú ý đến sự khác biệt này, doanh nghiệp của bạn chắc chắn sẽ thất bại.
Các yếu tố trong môi trường vĩ mô luôn biến động theo hướng thuận lợi hoặc bất lợi cho các công ty. Nếu linh hoạt và phản ứng nhanh với những thay đổi của môi trường, họ sẽ nắm bắt cơ hội, hạn chế thách thức, không ngừng phát triển và vượt trội so với đối thủ cạnh tranh.
* khoa học, công nghệ và công nghệ thông tin.
Nhóm nhân tố này ngày càng đóng vai trò quan trọng và quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về chất lượng và giá cả. khoa học công nghệ hiện đại sẽ làm giảm chi phí của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao. Thông tin cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh vì để cạnh tranh thành công, bất kỳ công ty nào cũng phải có thông tin về thị trường và đối thủ, đồng thời biết cách quản lý hiệu quả thông tin thu thập được. khoa học và công nghệ giúp các công ty thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền tải thông tin một cách nhanh chóng và chính xác; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Việc áp dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến giúp các công ty có lợi thế vượt trội so với các đối thủ, điều này đặc biệt quan trọng đối với các công ty muốn xuất khẩu sản phẩm của mình sang các nước công nghiệp lớn. >
3.2. mô hình cạnh tranh của 5 lực lượng cạnh tranh của michael porter
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động đều phải chịu áp lực cạnh tranh nhất định, theo mô hình sau:
hình ảnh 1: mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của người khuân vác michael
Mô hình 5 Lực lượng Cạnh tranh của Michael Porter là mô hình được nhiều nhà phân tích sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của một công ty hoặc ngành. mối đe dọa của các công ty mới gia nhập là sự xuất hiện của các công ty mới tham gia thị trường nhưng khả năng mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị trường (thị phần) của các công ty khác. Để hạn chế mối đe dọa này, các nhà quản lý thường dựng lên các rào cản như: mở rộng khối lượng sản xuất kinh doanh để giảm giá thành. sự khác biệt hóa sản phẩm. đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối. phát triển các dịch vụ bổ sung. Ngoài ra, có thể chọn vị trí phù hợp để tận dụng sự hỗ trợ của chính phủ và chọn thị trường tiêu thụ nguyên liệu và sản phẩm phù hợp
* Quyền lực thương lượng của các nhà cung cấp Các nhà cung cấp có thể thống trị một công ty do sự thống trị hoặc quyền lực độc quyền của một vài nhà cung cấp. nhà cung cấp có thể gây ra mối đe dọa đối với nhà sản xuất do tầm quan trọng của sản phẩm được cung cấp, tính chất khác biệt cao của nhà cung cấp với nhà sản xuất, sự thay đổi trong giá thành sản phẩm mà nhà cung cấp phải chấp nhận và xử lý, gây ra bởi sự liên kết của nhà cung cấp … Trong thương mại quốc tế, nhà cung cấp có vai trò là nhà xuất khẩu nguyên vật liệu. khi các công ty không thể khai thác được nguồn nguyên liệu trong nước thì các nhà cung cấp quốc tế lại càng có một vị trí quan trọng hơn. Mặc dù có thể có sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và công ty có thể chọn nhà cung cấp tốt nhất, nhưng khả năng thương lượng của nhà cung cấp hạn chế vẫn không đáng kể. Trong mối quan hệ này, để đảm bảo lợi ích cho công ty trước khả năng tăng chi phí đầu vào và đảm bảo tính cạnh tranh của sản phẩm, công ty phải biết khả năng thương lượng của nhà cung cấp trước sức mạnh của khách hàng. * Năng lực thương lượng của người mua Người mua có quyền thương lượng với công ty (người bán) thông qua áp lực giảm giá, giảm khối lượng hàng hóa mua từ công ty hoặc yêu cầu chất lượng tốt hơn ở cùng một mức giá … các yếu tố tạo nên sức mạnh thương lượng của người mua bao gồm: khối lượng mua lớn, mối đe dọa của quá trình liên kết người mua khi tiến hành đàm phán với các công ty, do sự tập trung quá lớn của người mua với các sản phẩm không khác biệt hoặc thiếu các dịch vụ bổ sung … Năng lực thương lượng của người mua sẽ rất lớn nếu các công ty không nhanh chóng nắm bắt những thay đổi của nhu cầu thị trường, hoặc khi công ty thiếu nhiều thông tin về thị trường (nhập và xuất). Các doanh nghiệp khác sẽ tận dụng điểm yếu này của doanh nghiệp để tung ra các sản phẩm phù hợp hơn, với giá cả dễ tiếp cận hơn và với các phương thức dịch vụ độc quyền hơn. * mối đe dọa của các sản phẩm và dịch vụ thay thế khi giá của các sản phẩm và dịch vụ hiện có tăng lên, khách hàng có xu hướng sử dụng các sản phẩm và dịch vụ thay thế. đây là yếu tố có nguy cơ gây mất thị trường kinh doanh. Các đối thủ cạnh tranh đưa ra thị trường các sản phẩm thay thế khác biệt nhiều so với sản phẩm của công ty hoặc cung cấp các dịch vụ hoặc điều kiện tài chính thuận lợi.
Sản phẩm thay thế càng giống với sản phẩm của công ty thì mối đe dọa đối với doanh nghiệp càng lớn. điều này sẽ hạn chế giá cả, số lượng hàng hóa bán ra và sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu có ít sản phẩm tương ứng với sản phẩm của công ty thì công ty sẽ có cơ hội tăng giá, tăng lợi nhuận. * Cạnh tranh giữa các công ty trong ngành Cạnh tranh giữa các công ty trong một ngành được coi là vấn đề trọng tâm nhất trong phân tích cạnh tranh. Các công ty trong một ngành cạnh tranh gay gắt về giá cả, sự khác biệt của sản phẩm hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các công ty hiện cùng tồn tại trên thị trường. cạnh tranh ngày càng gay gắt khi các đối thủ cạnh tranh nhiều và gần ngang nhau, khi tăng trưởng ngành thấp, khi chi phí tăng cao, khi các đối thủ có chiến lược đa dạng hóa … thì lợi thế và bất lợi đối với các đối thủ cùng ngành là khả năng nắm bắt nhanh chóng những thay đổi. , cải tiến sản xuất – kinh doanh hoặc thông tin thị trường. Các công ty sẽ có khả năng cạnh tranh cao nếu họ có cái nhìn sâu sắc, đúng giờ và ngược lại, họ có thể mất lợi thế cạnh tranh mỗi khi tỏ ra thiếu thận trọng và sáng suốt. các công ty ở các quốc gia khác nhau (trừ các công ty ở nước sở tại) khi kinh doanh trên cùng một thị trường nước ngoài sẽ gặp phải bất lợi như nhau do các quy định hạn chế của chính phủ nước sở tại. do đó, những công ty mạnh về tài chính, khoa học công nghệ hoặc cả hai sẽ có lợi thế lớn. Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, khi tham gia vào thị trường nước ngoài, các công ty cần có sự giúp đỡ của các công ty khác trong cùng một quốc gia để có thể chống chọi tốt hơn với sự cạnh tranh từ các công ty ở các quốc gia khác. Khi đó, cạnh tranh trong ngành có thể coi là cạnh tranh giữa các quốc gia. sức ép cạnh tranh đối với các công ty làm cho giá cả của các yếu tố sản xuất và đầu vào biến động theo các xu hướng khác nhau. Tình hình này đòi hỏi các công ty phải linh hoạt điều chỉnh các hoạt động của mình để giảm bớt thách thức và tăng cơ hội chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn vậy, các công ty phải nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, tung ra thị trường những sản phẩm mới có chất lượng, mẫu mã và giá cả phù hợp. Dựa trên mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter, chúng ta có thể đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các công ty.
4. tài liệu tham khảo
- miguel e. porter (1996), chiến lược cạnh tranh, nhà xuất bản khoa học kỹ thuật hà nội.
- tran suu (2005), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhà xuất bản lao động
- nguyen duc kien, bach duc hiểu (2008), giáo trình tài chính doanh nghiệp, học viện tài chính, nhà xuất bản tài chính
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Vẽ
Lời kết: Trên đây là bài viết Khái quát về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn