Cùng xem Sơ đồ tư duy bài thơ Tràng giang dễ nhớ, hay nhất – VietJack.com trên youtube.
Sơ đồ tư duy bài thơ Trường Giang hay và đáng nhớ nhất
Tải xuống
Nhằm giúp các em học sinh dễ dàng, hệ thống được các kiến thức và nội dung của bài tập Ngữ văn 11, chúng tôi đã tổng hợp các bài Sơ đồ tư duy về thơ Trường Giang hay và dễ nhớ nhất. Nội dung phong phú như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, sắp chữ, lập dàn ý phân tích, phân tích văn mẫu… Hi vọng sơ đồ tư duy về Bài thơ Trường Giang sẽ giúp các em nắm vững nội dung cơ bản của Bài thơ Trường Giang.
Bài giảng: trang giang – cô thủy nhan (giáo viên Vietjack)
A. Sơ đồ tư duy thơ Trường Giang
b.Học thơ trang giang
I. Tác giả
– huy cận (1919-2005) sinh ra tại làng An Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
– Ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ khác nhau
-Tác phẩm chính:
+ Tập thơ: Lửa thiêng, Khúc ca vũ trụ, Ngày tươi sáng, Đất nở hoa, Bài thơ để đời, Sáu mươi,…
+ Văn xuôi: Tụng Kinh
⇒ huyển là gương mặt tiêu biểu của thơ hiện đại
Hai. Đang hoạt động
1. Danh mục:
Mất ngôn ngữ.
2. Môi trường sáng tạo
– Xuất xứ: “Lửa thiêng”
– Hoàn cảnh viết: Mùa thu năm 1939, đứng trước dòng sông Hồng mênh mông sóng gió.
3. Phong cách sáng tác
– Huyền là nhà thơ lớn, tiêu biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới, với hồn thơ dạt dào cảm xúc.
– Thơ mộng, gần như ngắn gọn, triết lý.
4. Bố cục:
– phần 1 (khổ thơ 1): Cảnh sông nước và nỗi buồn của nhà thơ
– phần 2 (khổ thơ 2 + 3): Nỗi cô đơn lẻ loi của nhà thơ
– Phần thứ ba (bốn đoạn): Cảnh hoàng hôn tráng lệ và tình yêu quê hương của nhà thơ.
5. Giá trị nội dung:
Bài thơ bộc lộ nỗi buồn của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, chan chứa tình cảm con người, tình yêu cuộc sống và tình cảm yêu nước thầm kín, chân thành
6. Giá trị nghệ thuật:
Bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại
Ba. Phân tích ngắn gọn tác phẩm
1. Khương Kinh và nỗi buồn của nhà thơ.
* Hai dòng đầu:
– Câu thơ mở đầu lặp lại nhan đề “tràng giang” với vần “ang”: gợi âm vang xa xưa.
– Từ “Điệp điệp”, “Song hành”: Cảnh sông nước gắn với tâm trạng bùi ngùi, bất khuất.
– Hình ảnh:
+“Sóng”: Gợi sóng trong cảm xúc, như nỗi buồn chồng chất.
+ “thuyền” và “nước”: vốn dĩ hòa hợp nhưng đến câu thơ này lại lạc điệu, tách biệt.
* Đoạn 3:
– hình ảnh: “Thuyền” và “Nước” lặp lại câu thơ trên nhưng vẫn không đồng âm mà tản mạn hơn với nghệ thuật “Thuyền về” ><;“Tái nước”.
– Nói thẳng câu nói “trăm nghĩ cũng không hiểu”: Nỗi buồn từ trong tim lan ra thế gian.
* Phần cuối:
– Hình ảnh độc đáo “Vài cọng củi, một cành khô, từng gốc cây bấp bênh, hay thân phận con người trong sóng gió.”
– Nghệ thuật đảo ngữ và đối lập: Tăng thêm giá trị gợi hình, gợi hình và biểu cảm cho câu thơ.
2. Tầm nhìn ảm đạm và cô đơn của nhà thơ
* Mục 2:
* Hai dòng đầu:
Xem Thêm : tải bìa giáo án đẹp
– Từ:
+ Khổ thơ mở đầu bằng một dòng với hai từ gợi “thơ thẩn” và “ấp áp”: miêu tả nỗi buồn và sự nhỏ bé, thưa vắng và lạnh lẽo.
+ Có hai cách giải thích cho sự kết hợp phát âm giữa “đâu” và “xóm xa”:
Tiếng chợ chiều thật nhỏ nhẹ, chẳng biết từ đâu vọng về.
Không có tiếng chợ chiều.
Dù thế nào thì cảnh sông nước cũng mênh mông, vắng vẻ và hiu quạnh.
– Hình ảnh: Mở rộng từ phần trước. Khung cảnh thiên nhiên ở đây có cả sông nước mênh mông và những cồn cát nhỏ, gió thoảng, làng mạc, nắng chiều, trời cao… nhưng vẫn toát lên vẻ cô quạnh, tĩnh lặng. Dấu hiệu của sự sống hiện lên ở những nốt cao hiếm hoi giữa âm trầm buồn miên man. Nó khoét sâu thêm cảm giác cô đơn trong con người.
* Hai dòng cuối:
-Các hình ảnh “nắng lên”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng” và “bến vắng” phác họa một không gian bao la, vô tận, muôn hình vạn trạng trong vạn vật.
– Những tính từ chỉ cảm xúc: “sâu thẳm” và “cô quạnh” là sáng tạo độc đáo của Huyền.
Không gian mở rộng thành ba chiều: sâu, cao chót vót và rộng lớn.
* Mục 3:
* Hình ảnh:
-Hình ảnh chân thực của “hàng nối tiếp hàng”: những cánh bèo trôi, lênh đênh trên sông, lưu luyến giữa dòng sông dài của cuộc đời, những con người lạc lõng, cô đơn, số phận bấp bênh. ..
– Hình ảnh mong muốn: Con người mong tìm thấy một hình ảnh gần gũi, thân thuộc với cuộc sống trước vũ trụ vô biên. Là một chuyến đi ngược xuôi, là nhịp cầu nối hai bờ biển xa xôi. Hy vọng là một chút nhỏ bé và bình dị.
* Từ:
Trạng từ phủ định “không” được lặp đi lặp lại trong hình ảnh sẵn sàng của tác giả càng làm cho những mong muốn giản dị, nhỏ nhoi ấy trở nên vô vọng. Cảnh vật trở lại hoang vu, lạnh lẽo. Người dân điêu đứng giữa “bờ xanh bãi vàng”
4. Cảnh hoàng hôn tráng lệ và tình yêu quê hương của nhà thơ.
* Hai dòng đầu:
– hình ảnh: Thiên nhiên hùng vĩ, tầng tầng lớp lớp “mây cao”, tạo nên hình ảnh dãy núi “Silver Mountain” đồ sộ, bao quanh là những cánh chim lẻ loi, bóng chiều sà xuống. Che mọi cảnh.
p>
Xem Thêm : tải bìa giáo án đẹp
– Từ:
+ “Ép”: Để mây chuyển động, nội lực từ bên trong, các tầng mây không ngừng bị ép. Nó còn là thơ hiện đại bởi nó vay mượn một cách sáng tạo thơ cổ điển mà ai cũng biết.
+“向”: Bóng mặt trời lặn xuống nhanh đến nỗi con chim phải tung cánh bay về phương trời xa.
* Hai dòng cuối:
– Chữ “squishy” là một huyền thoại đặt ra, chưa từng thấy bao giờ. Tiếng lóng này tương ứng với “con cả nước”, thể hiện sự khao khát và cô đơn đối với “đất nước”.
Bốn. phân tích.
Đến với Phong trào Thơ mới, chúng ta được đắm mình trong khu vườn thơ đầy hương sắc của các thi nhân. Chúng ta không khỏi rạo rực trước những vần thơ táo bạo, phóng khoáng tràn đầy sức xuân ấy, không khỏi bồi hồi xúc động trước hồn thơ trong sáng trong thiên hạ, không khỏi xót xa cho hình tượng thơ xa lạ của chế độ. viên, hay ám ảnh nguyễn binh hồn thơ bình dị mà đáng yêu. Đặc biệt, khi đến với thơ của Huyền Y, chúng ta sẽ bắt gặp một kiểu sầu độc đáo và riêng biệt, đó là một kiểu sầu bao trùm, sầu trước vũ trụ bao la, dường như nỗi sầu của nhà thơ cứ thế, trải dài vô tận. . Bài thơ “Sông Dương Tử” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Hu Yan.
Bài thơ nằm trong tập thơ “Lửa thánh” sáng tác năm 1940. Tác phẩm bộc lộ nỗi niềm của con người trước cảnh đất trời rộng lớn vô biên, đồng thời khắc họa nỗi cô đơn, buồn tủi đến tột cùng.
trang giang có nghĩa là sông dài, và chang cũng được đọc là cánh đồng. Nhưng từ dòng sông vang lớn lại gợi một tầm nhìn bao quát, rộng lớn hơn. Tác giả sử dụng từ Hányue để tạo ra một dòng sông cổ kính và vĩnh cửu. Bài thơ mở đầu bằng cảnh sông:
Thuyền xuống nước, sông động nhưng khi thuyền về lại hoang vắng hiu quạnh, vài hàng cành khô rũ xuống.
Câu đầu gợi cảnh sông nước mênh mông có sóng lăn tăn trên trời, tạo cảm giác êm đềm trong không gian hiu quạnh, như chất chứa nỗi buồn: điệp điệp buồn. Nỗi sầu lớp lớp nối tiếp nhau, xuôi theo dòng nước trăm phương: sầu trăm phương. Cảnh trong bài thơ cổ kính;
Cây cổ thụ tán tròn. Trắng và trắng, bằng phẳng và yên tĩnh.
(thuyền căng buồm)
Thêm hình ảnh con thuyền là cành khô trôi giữa sông: cành khô khuyết mấy dòng. Trong rừng sâu, cành cây luồn qua biết bao sông, suối trôi về đây trôi giữa sông nước mênh mông, gợi nhớ một kiếp người lầm than, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ bé, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi.
Khổ thơ gợi lên hình ảnh không gian sông nước bao la: song song, thông mà cũng: buồn trăm phương, lạc mấy dòng, để rồi không hứa gặp, gặp mà chia, xa. Sự tương phản giữa hình ảnh dòng sông lớn và con thuyền nhỏ càng làm nổi bật sự mênh mông của dòng sông và sự cô đơn, tầm thường của con người.
Cả bài thơ có một giọng điệu chung là buồn trước nỗi cô đơn của cuộc đời cũ và sự lạc lõng của con người. Quý 2 nối tiếp quý 1 nhưng dư địa mở rộng và đẩy cao hơn.
Còn đâu tiếng thơ trầm cùng gió thoảng, còn đâu tiếng làng xa phố trưa?
Cồn cát nhỏ trơ trọi giữa lòng sông cộng với gió hiu hiu lại càng thêm hoang vắng, hiu quạnh, ẩn khuất. Cơn lũ từ thượng nguồn đổ xuống, nhấn chìm cồn cát nhỏ giữa sông chỉ nhô lên vài ngọn cỏ, gợi nhớ thân phận bị dòng đời nhấn chìm.
Không gian mở rộng về phía bờ: cảnh chợ trưa đã lùi sâu vào một nơi hoang vắng, xa vắng… dòng sông mênh mông lặng thinh. Con sông và nhà thơ dường như tách biệt với cuộc đời, đứng trong khung cảnh ấy khiến người ta càng thêm nhớ nhung cuộc sống quê hương.
Sự hiện diện của bầu trời cũng làm tăng thêm cảm giác mất mát: mặt trời đã lặn và bầu trời thăm thẳm. Bài thơ giàu hình tượng, dùng hình, đường, màu để gọi ra không gian: từng tia nắng từ trời rơi xuống tạo thành một khoảng trời thăm thẳm, thăm thẳm như ngọn núi sừng sững. Cách dùng từ “sâu” gợi liên tưởng đến sự mở rộng không ngừng của không gian trên bầu trời, đẩy lên cao hơn, cao hơn, sâu hơn tạo nên một không gian vũ trụ vô tận, và nỗi niềm của nhà thơ dường như vô tận:
Sông dài trời rộng, có bến cách biệt.
Dòng sông, bãi biển, bầu trời đều là những mảnh vụn, chứa đầy nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì vắng bóng sự sống nên khát khao sống. Nhưng những cảnh như vậy càng xuất hiện thì càng thấy lạc lõng và dửng dưng :
“Em đi đâu xuôi chèo đò không qua, đừng hỏi tri kỉ, bờ xanh bãi vàng yên lặng”.
Mọi thứ đều được kết nối: Gỗ lũa kết nối, bờ xanh và bãi vàng bổ sung cho nhau, nhưng tạo ra một thế giới độc lập và không liên quan. Trong khung cảnh ấy, hồn thơ muốn tìm lại dấu vết của sự sống, nhưng mọi thứ đều rộng lớn và xa xăm, được nhấn mạnh bởi hai phép phủ định:
Xem Thêm : MẠCH ỨNG DỤNG IC 4017
Rộng mà không có ngã rẽ, không có một chút thân mật nào.
Không có con thuyền, cây cầu, bóng tối hay bất cứ thứ gì gợi ý con người gặp gỡ và giao tiếp. Chỉ có nước bao la và tĩnh lặng.
Nơi sóng gặp nhau bốn bề, bên bờ kè khi gà gáy chiều
(Tôi đang ở nhà)
Trong khung cảnh ấy, tình yêu trong thế giới càng thêm ảm đạm, bởi sự sống vắng vẻ, ảm đạm. Nhà thơ đứng giữa Tổ quốc mà thấy bơ vơ, cô đơn nên muốn được ở bên người, ở đời, ở với quê:
Thuyền không nối, tuổi đợi buồm
(đảo)
Kết thúc bài thơ là cảnh hoàng hôn lộng lẫy phía chân trời xa:
“Tầng mây dập dìu núi bạc, chim tung cánh chiều chiều. Lòng quê êm theo nước, hoàng hôn khói hương nhớ nhà.”
Cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc mây trắng lấp lánh trong nắng. Tác giả nhận xét: “Có từng lớp từng lớp mây trắng, như những nụ bông trắng nở giữa trời. Nắng chiều làm phai đi vẻ đẹp của nó.” Đẹp tuyệt vời, tỏa sáng, hùng vĩ.
Hình ảnh gợi nhớ đến một đoạn thơ dịch từ thơ Đường: “Vương quốc mây vắt ngoài cửa biển” (Đỗ Phủ), nhưng mang tính thẩm mỹ huy hoàng hơn. Một chú chim hoàng hôn xuất hiện làm cho bức tranh thêm sống động, nên thơ, đẹp nhưng nhỏ bé và mờ ảo. Cánh chim như bị nắng chiều ép xuống, chỉ để nâng cánh lá rụng, làm cho không gian như có thể tích, có trọng lượng, nặng trĩu tự nhiên với nỗi buồn của nhà thơ. Cảnh xa ấy khơi dậy nỗi nhớ quê:
<3
Làn sóng nỗi nhớ quê hương của nhà thơ đã tỏa ra sóng nước. Nước từ bi mang nỗi nhớ vô biên về sóng. Đất nước của nỗi nhớ mang nỗi nhớ da diết về muôn phương. Câu cuối mượn từ bốn bài thơ Đường:
Quê hương biến mất, bóng chiều tà trên sông, sóng buồn.
(Hoàng Hạc)
Người xưa nhìn sóng nhớ nhà, nhưng người hiện đại không cần sóng nhớ quê. Vì tình yêu ấy đã day dứt trong lòng. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến nỗi buồn xuyên suốt bài thơ. Thật bơ vơ và đáng thương biết bao cho một người đứng giữa đồng vắng mà nhớ quê hương! Đoạn thơ kết thúc bằng cảnh hoàng hôn bên sông, mở ra tình yêu quê vô bờ bến.
Nói chung, nỗi buồn của Jiang Tianyun ở Nihe cũng là nỗi đau của cuộc sống và nỗi buồn của thế giới. Trong đó, nhà thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước, sự trân trọng đối với tiếng Việt. Vì vậy, Hoàng đế Xuân nhận xét: “Trường Giang là một bài thơ hát về núi và sông, do đó giải tỏa những trở ngại cho lòng yêu nước của sông và núi.”
Bài thơ nói lên nỗi niềm chung của một thời đại bằng những bài thơ mới. Nhưng nỗi buồn phát sinh từ vẻ đẹp hoang sơ, mất nhân tính của thiên nhiên không phải là nỗi buồn phát sinh từ sự trói buộc ngột ngạt của những khu rừng trên thế giới. Bài thơ mang phong cách cổ điển về hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang đặc trưng của thơ hiện đại về màu sắc, ngôn từ và không gian của câu tứ tuyệt.
V. Vài nhận xét về tác phẩm.
Trong giới thi nhân Việt Nam, nhà văn Hoài Thanh từng nhận xét thơ Huy gần như hội tụ trong một chữ “sầu”: “Đời ta gói gọn trong một chữ Mất bề rộng tìm chiều sâu Mà càng đi sâu càng lạnh trở thành. Trốn vào cõi thần tiên với trần gian, ta liều mình trong tình lữ trong lững, ta cuồng mặc tử, chế lan viên, ta đắm say trong xuân diệu. Mà động tiên đã đóng, tình không cuối cùng, và mê đắm vẫn bơ vơ. Trở về hồn ta với niềm tự hào, ta sững sờ và buồn. “Nếu có một cái “tôi” buồn trong cốt lõi của tinh thần thơ mới, thì Hồ Yan sẽ nói như vậy với cả thế hệ.
Đúng là thơ Huệ trước 1945 là một thế giới mênh mông của nỗi buồn, nhưng như nhà văn hiện đại Wu Yupan đã nói: “Gần Huệ quận không thấy tiếng reo, không thấy thơ. nhà thơ. Trước nỗi buồn man mác, nhẹ nhàng của người văn nhân trong mùa thu. Những tang gia gần gũi với mình thì ít, nhưng họ có thể đóng góp rất nhiều cho tiếng khóc của đời”. đời sống!
Nỗi u sầu cổ xưa gần như giả định gần như có thể được nhìn thấy từ mức độ ngất xỉu của Tang; giọt nước mắt đau buồn đã thấm sâu vào mắt kẻ chinh phục; Linh cảm chớm nở của Ruan Kehui:
Nỗi buồn không có mối mọt, chặt cho nát
Nỗi buồn không có trở ngại, đánh cho tan
Nó đã phun trào dữ dội đến tận đỉnh núi. Đọc lại những câu thơ này và nghe tác giả thì thầm:
Chúa ơi! Tôi cúi đầu
Hồn tôi lang thang suốt đời
Dưa chín đừng hái
Đưa tôi đi, địa ngục, thiên đường
(bản trình bày)
Cỏ khô:
Tiếng nhỏ giọt trên mái nhà
Nghe trời ảm đạm, nghe lòng buồn
<3
Mặt trời chia đôi bãi biển, trời đã về chiều…
Vườn hoang của trinh nữ rợp lá sầu riêng
(buồn thay)
Tuy nhiên, nếu chọn một bài thơ tiêu biểu nhất cho “đạo sầu” của Huyền thì đó phải là bài giang giang.
Khi dạy thơ mới ở trường phổ thông, qua nhiều lần thay đổi sách, bao giờ cũng không thiếu thơ. Có điều, để hiểu hết bài thơ này, để thấy được tư duy triết học, sự tịch mịch của thế gian, thấy được hương vị thi ca độc đáo qua cách xây dựng trục thời gian thay cho phong cách thơ bình dân là điều không dễ. Chỉ xét trên bề mặt lời văn, dòng sông chỉ là một nỗi buồn man mác, nhưng trong sâu thẳm tâm tư, tác phẩm là một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Huy Cận viết bài thơ năm 1939, khi tác giả đang học trường Cao đẳng Nông nghiệp Hà Nội. Theo Huy Cận, bài thơ lấy cảm hứng từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng vỗ. Bởi vậy, từ tên sách, câu thơ đến hệ thống hình ảnh, tất cả đều gợi nhớ đến thế giới bao la, vô biên của những điều may mắn. Đây là một thế giới không có đầu và chữ: “Thuyền đi song song với nước”, “Thuyền trở về nước”, “Cành đổ cây đổ đếm dòng”…; không bến không bến: “Cồn cát nhỏ biết thơ…”, “Tiếng thôn xa vọng đâu”, “Nắng lặn, trời cao mây thăm thẳm”…; nếu có đứt, sẽ không có sự liên tưởng: “Thuyền nước song hành”, “Không cầu tri kỷ”… Trong “Lửa thiêng Lời tựa”, Huyền Trang Hoàng đế nhận xét: “Cảm giác bồng bềnh, tôi thích nhất là cảm giác về không gian. “Không giống như Ruan Kunyan trước đây, khi quan sát phong cảnh mùa thu, anh ấy phải chọn vị trí ở giữa ao (trong vịnh thu) để mô tả đầy đủ cảnh. Trong tương lai không xa, trong không gian bao la đa chiều ấy, con người đã trở nên bé nhỏ, bất lực và vô định – một cái tôi “vô ngã” trước tạo hóa của vũ trụ. Đó là nhân tình thế thái trong mắt Huệ Năng trước 1945, khác với định nghĩa về cái tôi của các nhà thơ mới khác trong bối cảnh lịch sử này. Nền tảng xã hội của gs. Trần Đình Sử có lý khi nói rằng xã hội truyền thống và những ràng buộc cộng đồng của nó đã bị phá vỡ và thay vào đó là những cái tôi cá nhân, bấp bênh, mất phương hướng và thiếu liên kết khi bình luận về thơ. “Không cần thân mật.”
Giống như khi lý giải về những con người hai mặt, yêu đời (tôi là chiếc kim bé nhỏ/vạn vật đều là nam châm) nhưng lại rất bi quan về mùa xuân (hòn đảo tâm hồn tôi rợn ngợp tứ phương). Phép thuật có cội rễ sâu xa trong tình trạng mất nước, nô lệ. Nỗi buồn của Huyền cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh đó. Nỗi đau bắt nguồn từ các nhà thơ cuối trung đại (Sắc xương…) đến các nhà thơ giao thời (Tanda…) và thực sự “trưởng thành” trong thơ mới 1930-1945 và đạt đến đỉnh cao trong huyền huyễn. gần đó.
Học giả Pan Yu từng nói rằng có nhiều thơ Đường ở sông Dương Tử hơn thời Trung cổ. Bản thân Huyền cũng thừa nhận mình lấy cảm hứng từ thơ Đỗ Phủ Sự diệt vong của nhà Đường và việc cha ông ngâm thơ khiến bài thơ này mang phong cách cổ điển. Tuy nhiên, cái “tôi” giữa các nhà thơ lại khác nhau. Những anh hùng giang hồ lấy cảm hứng từ cái “tôi” trần tục, cái tôi trần gian nâng tầm triết lý về số phận con người. Ví dụ, nỗi buồn của Yuhe là nỗi buồn của hiện thực, nỗi buồn của nhận thức về quá khứ, trong khi nỗi buồn của Jiang He là nỗi buồn của hiện thực, đó là sự tự nhận thức, yêu bản chất con người, yêu cuộc sống, yêu nước và yêu nước …
Tải xuống
Xem thêm sơ đồ tư duy các bài văn, bài văn lớp 11 hay, chi tiết:
- Người cai trị khôi phục bản đồ tư duy có thẩm quyền
- Sơ đồ tư duy về Người đàn ông trong túi
- Bài thơ sơ đồ tư duy Anh yêu em
- Sơ đồ tư duy của bài thơ đó
- Những bài thơ lấy bản đồ tư duy
- Hơn 75.000 câu hỏi toán trắc nghiệm có đáp án
- Hơn 50.000 câu hỏi trắc nghiệm với 11 đáp án chi tiết
- Gần 40.000 Câu Hỏi Đáp Án Trắc Nghiệm Vật Lý 11
- Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm
Giới thiệu kênh youtube vietjack
Ngân hàng đề thi lớp 11 tại
khoahoc.vietjack.com
Nguồn: https://dongnaiart.edu.vn
Danh mục: Tin tức
Lời kết: Trên đây là bài viết Sơ đồ tư duy bài thơ Tràng giang dễ nhớ, hay nhất – VietJack.com. Hy vọng với bài viết này bạn có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, hãy cùng đọc và theo dõi những bài viết hay của chúng tôi hàng ngày trên website: Dongnaiart.edu.vn